Luật CNTT được thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 điều chỉnh một cách toàn diện hoạt động CNTT cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan. Trong 10 năm triển khai Luật CNTT và các chính sách của Đảng và Nhà nước, lĩnh vực CNTT đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. CNTT đã dần trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật, đóng góp ngày càng lớn cho GDP.
Theo Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng, sau hơn 10 năm triển khai thi hành, Luật CNTT hiện nay cũng đã bộc lộ một số bất cập và tồn tại nhiều vấn đề, những suy nghĩ, quan điểm của chúng ta về CNTT đã có nhiều thay đổi, do sự thay đổi nhanh chóng về khoa học công nghệ. Vì vậy, trước thực trạng này đặt ra chúng ta phải rà soát, hoàn thiện lại các chính sách, pháp luật về CNTT để phù hợp với thực tế phát triển. Hiện Chính phủ đã yêu cầu Bộ TT&TT chủ trì, xây dựng Đề án sửa đổi, bổ sung Luật CNTT.
Tại tọa đàm, nhiều DN CNTT lớn đã chỉ ra những mặt còn tồn tại của Luật CNTT. Ông Bùi Quang Ngọc, Tổng Giám đốc FPT cho rằng, các văn bản, chính sách muốn thúc đẩy một ngành công nghiệp phát triển thì phải tạo ra cung và cầu cho thị trường. Trong khi đó thì các văn bản, thể chế hiện nay của mình về mặt tạo ra cầu rất yếu.
Ông Ngọc cũng thẳng thắn cho rằng, khi nhà nước xây dựng văn bản thì cần có tính khả thi, chú trọng tính hiệu lực và có chế tài đi kèm nếu không thực hiện.
Đồng tình với ý kiến của ông Ngọc, ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC cho hay có nhiều văn bản đôi khi thậm chí trái lại tinh thần của Luật, hạn chế những điều Luật đã cho phép. Ví dụ ngay như với Nghị quyết 36a cũng bị vướng câu chuyện là có sự phân biệt giữa các thành phần nhà nước, tư nhân. Tôi tin các doanh nghiệp nhà nước cũng không thích bị phân biệt đối xử. Họ cũng thích một môi trường, một thể chế, một luật chơi cho các thành phần.
Đại diện cho Tập đoàn VNPT, ông Đỗ Vũ Anh, Thành viên HĐTV Tập đoàn VNPT cho hay, VNPT đang triển khai rất nhiều dự án về chính quyền điện tử, cổng thông tin hành chính một cửa… Trong quá trình thực hiện các dự án phục vụ cho các cấp chính quyền, VNPT nhận thấy rằng nhiều tỉnh làm rất tốt, nhẹ nhàng nhưng nhiều tỉnh triển khai có vấn đề. Ông Vũ Anh dẫn chứng về một số bất cập như Cổng thông tin hành chính một cửa với 4 cấp độ, xuống đến các cấp độ phía dưới gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn như về quản lý đất, liên quan đến sổ đỏ và nhiều vấn đề khác… Sổ đỏ có 3 người, 1 trong 3 người đi vắng, rất khó để giải quyết. Đây là việc không phải là không giải quyết được nhưng không giải quyết nhanh như doanh nghiệp kỳ vọng.
Vấn đề nữa liên quan đến các Luật, đại diện VNPT cho rằng, cần có kế hoạch để đồng bộ hóa các Luật của mình khi có sự thay đổi. Chẳng hạn như cụ thể hóa tối đa theo các quy chế hướng dẫn. Ví dụ như tại Điều 48 về chính sách phát triển công nghiệp CNTT có nêu: “Nhà nước có chính sách ưu đãi, ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp CNTT, đặc biệt chú trọng công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung để trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân”, nhưng tới năm 2016, Chính phủ mới ban hành Nghị quyết 41 của Chính phủ về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy phát triển và ứng dụng CNTT. Như vậy, là từ Luật cho đến Nghị định hướng dẫn cũng có độ trễ nhất định.
Lĩnh vực nội dung số cũng được các DN cho rằng về mặt chính sách, đang có một số hạn chế sự phát triển của ngành nội dung số trong nước, nhà nước có quy định quản lý nội dung số trong nước rất chặt, chính sách quản lý vẫn chưa phù hợp, quy định chỉ xoay quanh việc áp dụng cho thị trường Việt Nam.
Kết luận buổi Tọa đàm, Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng cho biết, mục tiêu khi tổng kết việc thi hành Luật CNTT cũng là dịp để xác định những rào cản, vấn đề mà Nhà nước, Quốc hội cần thấy mà nếu không giải quyết được thì không thể đưa CNTT lên một tầm mới như mong đợi là làm ngành hạ tầng của hạ tầng, không thể giúp cho Chính phủ của chúng ta trở thành một chính phủ kiến tạo.
Thứ trưởng cũng chỉ ra những nội dung quan trọng trong tổng kết Luật CNTT hiện nay cần được quan tâm là sự chồng chéo trong Luật, trong vấn đề quản lý Nhà nước thể hiện ở những vấn đề cụ thể. Chúng ta mong muốn sự thông thoáng trong đầu tư, nhưng thực chất mà nói vấn đề này lại bị điều tiết bởi pháp luật khác. Sự chồng chéo còn thể hiện trong vấn đề cạnh tranh. Có thể nói, tất cả các vấn đề về cạnh tranh đều đã được quy định trong Luật Cạnh tranh, thế nhưng rất khó điều tiết các vấn đề cạnh tranh bởi Luật Cạnh tranh áp theo chiều ngang và có thể được áp dụng cho các ngành nhưng lại không có các vấn đề quy định cụ thể. Các điều khoản đó không thể điều tiết một số trường hợp cụ thể và đặc trưng trong lĩnh vực viễn thông hay CNTT.