ASEAN: Khai thác sức mạnh tập thể để phục hồi bền vững sau đại dịch
Các nền kinh tế ASEAN đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc chính sách gia hạn, làm gián đoạn cả tiêu dùng và sản xuất. Điều tồi tệ nhất dường như đã qua với các ca nhiễm Covid đang giảm dần. Bất chấp môi trường đầy thách thức, chỉ số MSCI AC ASEAN công bố hiệu suất không đổi là 0,21% vào năm 2021. Trong khi đó, chỉ số MSCI AC châu Á ngoài Nhật Bản giảm hơn 4%. Khi sự phục hồi diễn ra, sự quan tâm của các nhà đầu tư có khả năng sẽ được gia tăng, đặc biệt là vì khu vực này mang lại cho các nhà đầu tư cơ hội đa dạng về tăng trưởng và giá trị.
Sự thúc đẩy tăng trưởng từ các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài
Việc cấu hình lại chuỗi giá trị toàn cầu (GVC) sau khi đại dịch bùng phát mang lại cơ hội lớn cho các nền kinh tế ASEAN nâng cấp sự tham gia vào GVC. Thông thường, quyết định di dời các GVC sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như chi phí lao động, khả năng tiếp cận lao động có tay nghề cao, chất lượng cơ sở hạ tầng và sự phát triển công nghệ truyền thông thông tin.
Tin tích cực là các nền kinh tế ASEAN tăng trưởng tương đối tốt trên một số lĩnh vực so với các khu vực khác. Đây có thể là lý do tại sao khu vực này là một trong những khu vực được hưởng lợi nhiều nhất từ các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu vào năm 2021; tổng dòng vốn vào tăng 35% so với cùng kỳ năm ngoái lên 184 tỷ đôla Mỹ và thậm chí còn vượt quá con số trước đại dịch năm 2019 là 182 tỷ đôla Mỹ. Hơn nữa, sự gia tăng đã được nhìn thấy ở hầu hết các quốc gia thành viên.
Một yếu tố khác làm nền tảng cho FDI là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). RCEP rất quan trọng vì thống nhất các hiệp định thương mại tự do (FTA) hiện có giữa ASEAN và các đối tác hiện có và sẽ là FTA lớn nhất thế giới được tính theo GDP.
RCEP làm tăng sức hấp dẫn của ASEAN đối với FDI, di dời các hoạt động chuỗi giá trị và cơ sở sản xuất. Đây là cơ hội cho các công ty tiếp cận với một thị trường 600 triệu người tiêu dùng. Khi ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đa dạng hóa hoạt động của mình, ASEAN sẽ được hưởng lợi từ nguồn vốn FDI cao hơn. Phần lớn FDI của ASEAN là vào các lĩnh vực sản xuất.
Các quốc gia như Thái Lan, Malaysia và Việt Nam có thể được hưởng lợi từ việc cấu hình lại các GVC, do dân số và lực lượng lao động trẻ hơn. Mức lương tối thiểu của vùng cũng là một điểm thu hút các công ty thành lập các cơ sở sản xuất. Riêng Indonesia thì hấp dẫn về tài nguyên thiên nhiên. Khi căng thẳng địa chính trị gia tăng, đầu tư vào ASEAN được coi là hấp dẫn hơn nhờ khả năng tiếp xúc với hàng hóa và sự đa dạng của thị trường ASEAN.
ASEAN dự kiến sẽ hồi sinh đầu tư sau 2 năm trì hoãn do Covid gây ra. Indonesia, Thái Lan và Malaysia là những nước nổi bật về FDI. Trong khi đó, Philippines dự kiến sẽ bắt đầu nới lỏng một số hạn chế đầu tư nước ngoài khó khăn nhất ở châu Á. Singapore cũng sẽ được hưởng lợi nhờ trạng thái trung tâm “lưu thông”. Trong các quốc gia ASEAN này, các ngành hàng hóa, công nghệ và ô tô được định vị tốt nhất để gặt hái lợi ích.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đi đầu
Đại dịch đã dẫn đến những khoảng trống cấp bách về cơ sở hạ tầng ở nhiều nước ASEAN, buộc các chính phủ phải xác định chăm sóc sức khỏe, viễn thông, giao thông vận tải, hậu cần và giáo dục là những lĩnh vực trọng tâm bên cạnh các dịch vụ cơ bản như nước và vệ sinh. Từ Indonesia đến Philippines và Việt Nam, cả cơ sở hạ tầng cứng và mềm đều đang được thúc đẩy mạnh mẽ.
Trong khi cơ sở hạ tầng cứng có xu hướng do khu vực công đảm nhận, thì cơ sở hạ tầng mềm là cơ hội cho các công ty khu vực tư nhân đóng một vai trò to lớn. Các chính phủ ASEAN đã nhận ra tầm quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế kỹ thuật số là chìa khóa để khắc phục tình trạng bất bình đẳng. Kỹ thuật số hóa mang lại cơ hội đầu tư trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, fintech, thương mại điện tử, chăm sóc sức khỏe, hậu cần và hơn thế nữa.
Sự gián đoạn do các công nghệ mới này gây ra và tỷ lệ thâm nhập thấp hiện tại đối với thương mại điện tử và fintech đại diện cho các lĩnh vực tăng trưởng trong tương lai. Hơn nữa, để các nền kinh tế ASEAN có thể gặt hái được đầy đủ lợi ích của việc thu hút lại các chuỗi cung ứng, điều cần cân nhắc chính là sự sẵn có của cơ sở hạ tầng cứng và mềm.
Tăng cường cơ sở hạ tầng vật chất, chẳng hạn như nâng cao hiệu quả của các liên kết vận tải cùng với hậu cần thông minh và mạng lưới chuỗi cung ứng, sẽ giảm bớt sự gián đoạn đáng kể đối với chuỗi cung ứng. Cuối cùng, phát triển cơ sở hạ tầng mang lại hiệu ứng số nhân tích cực trong dài hạn đối với tăng trưởng và việc làm.
Các cơ hội đầu tư như vậy đang gia tăng ở Indonesia và Singapore. Hiện tại, các khu vực kinh tế mới vẫn còn ít đại diện trong khu vực, nhưng chúng đang nổi lên như một thế mạnh mới. Các danh sách mới ở Singapore và Indonesia đang tăng thêm chiều rộng và sự đa dạng cho tăng trưởng.
Thúc đẩy tăng trưởng xanh bền vững
“Xanh hóa” ASEAN sẽ là một lĩnh vực tăng trưởng khác. Quá trình đô thị hóa và phát triển nhanh chóng của các thành phố lớn trong khu vực gây ra những hậu quả đáng kể về môi trường. Hiện tại, khoảng 50% trong số hơn 600 triệu người của ASEAN sống ở các khu vực thành thị, dự kiến sẽ có thêm 100 triệu người khác trong 15 năm tới; lượng phát thải carbon và chất thải đang gia tăng.
Do các thành phố của ASEAN là một trong những thành phố dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước tác động của biến đổi khí hậu, nên ưu tiên hàng đầu của đô thị hóa bền vững. Liên minh châu Âu đã cam kết hỗ trợ 5,1 triệu EUR từ năm 2021-2025 cho chương trình Các thành phố xanh ASEAN thông minh, tập trung vào các giải pháp xanh và thông minh thông qua số hóa và sử dụng công nghệ.
Sự tập trung vào tính bền vững này được thiết lập để tạo ra những cơ hội đáng kể trong một số lĩnh vực nhất định, đặc biệt là chuyển đổi năng lượng và năng lượng tái tạo cho sản xuất, xây dựng và lắp đặt, vận tải và các tòa nhà. Hơn nữa, sự thúc đẩy xanh này cũng sẽ tạo ra nhiều việc làm xanh mới với Tổ chức Lao động quốc tế ước tính 14 triệu việc làm ròng sẽ được tạo ra ở ASEAN vào năm 2030.
Những thách thức chính
Một cuộc khủng hoảng Ukraine - Nga kéo dài sẽ chứng kiến lạm phát tăng trên diện rộng. Tác động đối với từng quốc gia sẽ không đồng đều; Philippines và Thái Lan nhạy cảm hơn với giá dầu cao hơn, trong khi các nước xuất khẩu năng lượng và hàng hóa như Indonesia và Malaysia sẽ có một số vùng đệm.
Tuy nhiên, sự gia tăng tỷ lệ lạm phát có thể không nhất thiết dẫn các ngân hàng trung ương châu Á đi theo con đường chính sách tiền tệ thắt chặt, không giống như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ so với dự đoán trước đây, đặc biệt là khi vẫn còn khoảng cách sản lượng đáng kể ở một số quốc gia châu Á.
Trong mọi trường hợp, cổ phiếu ngân hàng có xu hướng hoạt động tốt trong môi trường tỷ giá tăng và tỷ trọng ngân hàng trong các chỉ số của ASEAN vẫn cao hơn nhiều so với các khu vực khác của châu Á Thái Bình Dương.
Một lĩnh vực đáng quan tâm khác là sẹo kinh tế từ Covid và kết quả là mất sản lượng. Trong khi khu vực đang trên đà phục hồi, chất lượng tăng trưởng vẫn khác nhau do tính chất khác nhau của các nền kinh tế.
Do đó, sự phục hồi sẽ không đồng đều trên toàn khu vực. Tuy nhiên, sẽ không quá lâu để các nhà đầu tư nhận thấy các điểm mạnh về cấu trúc của khu vực, đó là nhân khẩu học, mức thâm nhập tín dụng và kỹ thuật số thấp cũng như mức định giá hấp dẫn. Khi căng thẳng địa chính trị gia tăng, ASEAN trở thành một câu chuyện hấp dẫn hơn. Các nhà đầu tư đang tìm kiếm các ý tưởng khác biệt sẽ chú ý đến sự đa dạng của các thị trường ASEAN.