Khoảng trống trong thực thi chính sách
Theo Nghị định VNTLAS, gỗ NK vào Việt Nam được coi là rủi ro nếu loài gỗ nằm trong Phụ lục của Công ước CITES, hoặc gỗ nằm trong nhóm IA, IIA thuộc Danh mục các loài thực vật, động vật nguyên cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ, hoặc gỗ lần đầu tiên được NK vào Việt Nam, hoặc gỗ có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng tại các quốc gia khai thác.
Nghị định VNTLAS quy định rõ gỗ rủi ro và gỗ được NK từ các quốc gia không thuộc vùng địa lý tích cực thì người NK cần hoàn thành Bản kê khai nguồn gốc gỗ NK (Mẫu số 3, Phụ lục 1, Nghị định VNTLAS). Đây là một trong những yêu cầu thông tin quan trọng nhất mà nhà NK cần hoàn thiện.
Cần quản lý chặt gỗ nhập khẩu |
Thực trạng của việc thực hiện bổ sung thông tin trong Mẫu số 03 cho thấy phần thông tin chung về các lô hàng được các doanh nghiệp (DN) NK thực hiện đầy đủ (Phần A). Về mức độ rủi ro của lô hàng NK (Phần B), DN có 2 sự lựa chọn gồm: gỗ không thuộc vùng rủi ro và vùng địa lý tích cực (B1); gỗ thuộc loài rủi ro hoặc từ vùng địa lý không tích cực (B2). Khi lựa chọn B2, DN NK cần phần hoàn thành thông tin tài liệu bổ sung (Phần C) và biện pháp bổ sung để giảm rủi ro (Phần D).
Tại Phần C, Mẫu số 03 cũng đã quy định các loại hình tài liệu bổ sung. Tuy nhiên, đến nay, hầu hết các DN NK bỏ trống phần thông tin cần khai báo này, bởi các DN không có thông tin bổ sung. Một số DN điền thông tin trong phần này là Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật. Tuy nhiên, giấy phép kiểm dịch thực vật là một chứng từ bắt buộc trong bộ chứng từ NK mà không phải là một loại hình tài liệu bổ sung nhằm minh chứng cho tính hợp pháp của gỗ rủi ro NK. Do không có thông tin trong phần tài liệu bổ sung, các DN NK cũng bỏ trống thông tin biện pháp bổ sung để giảm rủi ro.
Nghị định VNTLAS cũng quy định tài liệu/thông tin bổ sung nằm trong Phụ lục 3 với 4 hợp phần thông tin chính. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thực hiện Nghị định này đang diễn ra không như kỳ vọng.
Qua khảo sát nắm bắt thông tin tại một số các DN NK gỗ từ châu Phi trong thời gian gần đây cho thấy việc thực hiện Nghị định VNTLAS đang gặp phải một số khó khăn, do chưa quy định cần phải yêu cầu nộp bổ sung giấy tờ cụ thể nào ở Phần C: Tài liệu bổ sung và Phần D: các biện pháp bổ sung của chủ gỗ NK, Phụ lục 3.
Thông tin chia sẻ từ Hiệp hội gỗ Cameroon cho thấy, chuỗi cung xuất khẩu (XK) gỗ từ quốc gia này tiềm ẩn nhiều rủi ro, từ khâu khai thác cho tới khâu XK. Một số DN NK của Việt Nam từ châu Phi cũng cho biết điều này đúng với nhiều quốc gia khác thuộc châu Phi hiện đang XK gỗ nguyên liệu cho Việt Nam.
TS Tô Xuân Phúc - Tổ chức Forest Trends - cho hay, các quy định có liên quan đến kiểm soát nguồn gốc gỗ rủi ro NK theo tinh thần của Nghị định VNTLAS đến nay không được thực hiện. Nguyên nhân chính là cả phía cơ quan quản lý và DN đều không rõ và không có cách hiểu giống nhau về loại hình tài liệu bổ sung khi NK gỗ rủi ro là gì? cơ quan nào tại quốc gia XK cấp thì sẽ được cơ quan quản lý NK của Việt Nam chấp nhận?.
Kết quả là quy trình hiện tại về kiểm soát NK đối với gỗ rủi ro giống hệt so với quy trình trước khi Nghị định VNTLAS được ban hành, và các cơ chế kiểm soát tính pháp lý của gỗ rủi ro NK cũng giống hệt với các cơ chế áp dụng cho gỗ không rủi ro. Đây là khoảng trống trong khâu thực hiện chính sách hiện nay.
Siết chặt quản lý trong khâu NK đối với nguồn rủi ro
Bình quân mỗi năm Việt Nam NK khoảng 2-2,5 triệu m3 gỗ quy tròn là gỗ nhiệt đới. Một con số rất lớn, tương đương 40 - 50% trong tổng lượng gỗ tròn và xẻ NK. Theo tiêu chí phân loại gỗ NK của Nghị định VNTLAS, đây là nguồn gỗ rủi ro cao.
"Kiểm soát hiệu quả tính hợp pháp của gỗ rủi ro NK có vai trò sống còn với ngành gỗ Việt Nam với trọng tâm ưu tiên vào xuất khẩu. Điều này liên quan trực tiếp tới việc thực hiện hiệu quả Nghị định VNTLAS về kiểm soát gỗ rủi ro NK", ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) - nhấn mạnh và lý giải: Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác tự nguyện VPA/FLEGT; Chính phủ Việt Nam đã ban hành và đang thực hiện Nghị định VNTLAS để kiểm soát gỗ NK bất hợp pháp; Chính phủ Hoa Kỳ đang tiến hành điều tra ngành gỗ Việt Nam.
Trong khâu XK, các DN Việt đã và đang cam kết tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu từ các thị trường NK như: Quy định EUTR 995; Luật Lacey của Hoa Kỳ; Luật đảm bảo gỗ hợp pháp của Australia, Hàn Quốc, Nhật Bản,…. Khi XK sản phẩm gỗ sang các thị trường này, các DN của Việt Nam cam kết và cung cấp đầy đủ các bằng chứng về nguồn gốc gỗ sử dụng làm đồ gỗ XK.
Để giảm rủi ro trong khâu gỗ nguyên liệu NK, giúp ngành gỗ tránh được các vụ điều tra của các thị thường NK gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam, mới đây, VIFOREST đã có công văn gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài chính đề nghị chỉ đạo các cơ quan chuyên môn yêu cầu các DN NK ngoài việc nghiêm chỉnh chấp hành việc hoàn thiện thông tin trong Phần C và D của Mẫu số 3, Phụ lục I của Nghị định VNTLAS, cần cung cấp/khai báo bổ sung tại Phần C những loại giấy tờ gồm: Bản photo giấy phép khai thác của đơn vị khai thác/hoặc chứng nhận được phép khai thác lô rừng được cấp cho đơn vị chủ rừng; bản photo giấy chứng nhận đăng ký là cơ sở chế biến gỗ (nếu là gỗ xẻ); bản photo visa XK.
Bên cạnh đó, yêu cầu DN NK bổ sung tài liệu, chứng từ giải trình nguồn gốc gỗ theo thông tin “quốc gia nơi khai thác” chứ không theo hướng quốc gia XK. Bởi trong thực tế có thể xảy ra trường hợp nhà XK có địa chỉ tại vùng địa lý tích cực, nhưng nhà XK này lại kinh doanh gỗ ở vùng địa lý không tích cực, khi làm thủ tục khai báo hải quan, trên tờ khai ghi XK vùng địa lý tích cực, điều này dẫn tới tình trạng có thể bị lợi dụng.
Ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch VIFOREST: Việc làm rõ các loại giấy tờ bổ sung trong hồ sơ nhập khẩu mà doanh nghiệp cần cung cấp cho cơ quan chức năng, giúp doanh nghiệp thực hiện thống nhất, nhằm mục tiêu thực hiện Nghị định VNTLAS đạt hiệu quả cao nhất. |