
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
“Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” là nhan đề bài viết của PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc - nguyên Viện truởng Viện Lịch Sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng nêu rõ mục tiêu chiến lược của cách mạng là: "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập", "để đi tới xã hội cộng sản". Đó cũng chính là sứ mệnh lịch sử vẻ vang của Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tộc từ đó tới nay và là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn bảo đảm cho cách mạng và dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và có được cơ đồ như ngày nay.
![]() |
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. (Ảnh chụp lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). |
Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc Việt Nam - Kỷ nguyên độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, Đảng Cộng sản cầm quyền có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Kháng chiến chống xâm lược để giành lấy độc lập, thống nhất hoàn toàn với chân lý nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sự nghiệp đấu tranh kiên cường đó kéo dài 30 năm mới đến ngày toàn thắng 30/4/1975. Công cuộc kiến quốc đồng thời diễn ra để tạo dựng một xã hội mới tốt đẹp, vì ấm no, hạnh phúc của đồng bào, đất nước giàu mạnh, với khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền của Đảng từ sau Cách mạng tháng Tám đã gần 80 năm. Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa, phong kiến nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá.
Nhớ lại thời miền Bắc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, vốn liếng chỉ có 3 sào ruộng một đầu người (hơn 1.000 m2) với mấy mỏ than ở Quảng Ninh. "Năm hai mùa chua mặn. Gian nan. Hai tay trắng với giang sơn một nửa" (Tố Hữu). Vậy mà miền Bắc đã vươn mình, mạnh mẽ từ đường lối Đại hội III của Đảng (9/1960), nhiều chính sách và các cuộc vận động lớn. Năm 1964 đã đủ lương thực cho toàn xã hội, tự túc 90% hàng tiêu dùng với số dân 17 triệu người. Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt 27/3/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới.
Sau ngày đất nước thống nhất 30/4/1975, cả dân tộc đứng trước vận hội mới để phát triển nhưng lại phải đương đầu với những thách thức nặng nề. Hậu quả của 30 năm chiến tranh, cả nước vẫn là nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu với 45 triệu dân. Các nước và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận và phá hoại. Thiên tai và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ác liệt ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc và phải thực hiện nghĩa vụ quốc tế, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. "Lụt Bắc, lụt Nam, máu đầm biên giới. Tay chống trời, tay giữ đất căng gân" (Tố Hữu). Tình hình khắc nghiệt đó đã dẫn tới đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979.
Đảng cũng thẳng thắn tự nhận thấy khuyết điểm yếu kém của chính mình trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8/1979) khởi đầu quá trình tìm đường đổi mới. Tiếp đó là Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán trong hợp tác xã nông nghiệp (13/1/1981); Quyết định 25CP, 26 CP (21/1/1981) của Chính phủ trong quản lý công nghiệp; Đại hội V của Đảng (3/1982); Hội nghị Đà Lạt (7/1983); Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6/1985) và Kết luận của Bộ Chính trị (8/1986). Đó là những bước đột phá của quá trình đổi mới từng phần để đi tới đường lối đổi mới tại Đại hội VI của Đảng (12/1986).
Đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI là kết quả của đổi mới tư duy lý luận, khắc phục nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội, bệnh giáo điều, nóng vội và chủ quan duy ý chí. Nhận thức rõ hơn đặc điểm của Việt Nam, những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI nhấn mạnh bài học: "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Đại hội VI của Đảng là cột mốc lịch sử đặc biệt mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng và đất nước Việt Nam và cũng thể hiện trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Đảng trước đất nước và nhân dân.
Quá trình đổi mới gần 40 năm qua, Đảng và dân tộc Việt Nam đã lập nên kỳ tích, làm biến đổi sâu sắc, toàn diện đất nước và mỗi gia đình, mỗi con người. Chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nhưng Đảng và dân ta cũng phải vượt qua nhiều thử thách, nguy cơ. Thử thách rất lớn là ảnh hưởng tiêu cực của sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự tồn tại 4 nguy cơ lớn cản trở sự phát triển và đổi mới. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Nguy cơ "diễn biến hòa bình", sự chống phá của các thế lực thù địch. Quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo có một đặc điểm là luôn luôn tranh thủ cơ hội để phát triển và chủ động đẩy lùi nguy cơ, vượt qua mọi cản trở để đi tới.
Đảng Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững khi bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Kỷ nguyên là khái niệm khoa học để chỉ một thời kỳ, một thời đại lịch sử với những nội dung, đặc điểm, đặc trưng nổi bật dẫn dắt một dân tộc hoặc nhân loại đi tới mục tiêu cao cả và hiện thực. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam để đi tới một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hiện đại, văn minh và hạnh phúc. Thực hiện sứ mệnh lãnh đạo trong kỷ nguyên mới đòi hỏi Đảng phải kế thừa thành công trong sự lãnh đạo ở các thời kỳ trước, xử lý những vấn đề mới đặt ra một cách khách quan, khoa học cả về lý luận và thực tiễn, tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn.
Một là, tiếp tục làm rõ mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những đặc trưng, hình thức, bước đi phù hợp với thực tiễn của đất nước và sự biến đổi của thời đại. Sự phát triển đó dựa trên 8 đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội XI thông qua. Đại hội XI đã nêu rõ:
"Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Đại hội XIII của Đảng (1/2021) chủ trương: "Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"6 năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
![]() |
Đoàn Chủ tịch điều hành Đại hội. Ảnh: TTXVN |
Đảng trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với điều kiện mới. Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng đổi mới nhận thức và hành động. Với tinh thần đó, năm 2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng công bố tác phẩm: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn và có sự phát triển mới trong nhận thức.
"Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé", vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Tổng Bí thư Tô Lâm, trong bài viết Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới đã nhấn mạnh: "Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - "phương thức sản xuất số", trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”.
Đó là những định hướng căn bản cho sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong thời đại và điều kiện mới và cũng là sứ mệnh lịch sử lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hai là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Với sứ mệnh là đội tiên phong lãnh đạo cách mạng và Đảng cầm quyền, bước vào kỷ nguyên mới, Đảng không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối. Cương lĩnh, đường lối dựa trên lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước và thế giới. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng tập trung lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật. Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm yêu cầu phát triển của thời kỳ mới. Quán triệt chỉ dẫn của Bác Hồ: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng bộ máy tổ chức tinh, gọn, mạnh với đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực, đạo đức, trách nhiệm và chuyên nghiệp và với khả năng ứng dụng khoa học công nghệ. Chú trọng những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám vượt qua thách thức, vì lợi ích chung.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm. Kinh tế phát triển thì đất nước phát triển. Đảng lãnh đạo đất nước có nền kinh tế phát triển cao, quy mô lớn dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại tạo năng suất cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh. Xây dựng công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, thương mại, dịch vụ phát triển cao. Không ngừng hội nhập kinh tế quốc tế. Định hình phương thức sản xuất mới, "phương thức sản xuất số". Phát triển kinh tế gắn với chiến lược phát triển khoa học, công nghệ.
Xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc phải bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Xây dựng, hoàn thiện các chính sách xã hội về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập, nhà ở, chữa bệnh, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau. Xây dựng hệ thống tiêu chí quốc gia hạnh phúc phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tiếp tục phát triển 3 Chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và xây dựng phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt hơn chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa còn, dân tộc còn. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực để phát triển kinh tế. Đặt văn hóa ngang với chính trị và kinh tế. Phát triển văn hóa gắn với giáo dục, đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và xây dựng con người Việt Nam trong thời đại mới: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trí tuệ, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng tăng cường lãnh đạo quốc phòng, an ninh, bảo vệ tổ quốc từ sớm, từ xa. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang (quân đội, công an) tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, 4 không. Không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ với các nước. Không tham gia liên minh quân sự. Không đi với nước này để chống nước kia. Không để nước ngoài lập căn cứ quân sự, đóng quân trên lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, là bạn, là đối tác tin cậy, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Tăng cường ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao quốc phòng an ninh. Không ngừng mở rộng hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hóa.
Lãnh đạo tốt các lĩnh vực trọng yếu trên đây, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng và dân tộc Việt Nam, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, bền vững.
Ba là, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng là một hệ thống các phương pháp, hình thức mà chủ thể lãnh đạo tác động vào đối tượng lãnh đạo, xử lý các mối quan hệ và dự báo chiến lược và sự chuyển biến cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến cách lãnh đạo và nhấn mạnh một số điểm. Đảng cần phải ra quyết định cho đúng. Tổ chức thực hiện cho tốt. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, giám sát. Coi trọng dự báo, thấy trước. Lắng nghe ý kiến của nhân dân. Chủ trương nào mà dân chúng cho là không đúng, không phù hợp thì cần nghiên cứu, xem xét để sửa chữa.
Trong lãnh đạo rất cần sự phát triển để thấy được cơ hội, thời cơ đồng thời thấy rõ những khó khăn, thách thức, nguy cơ. Chẳng hạn 4 nguy cơ mà Đảng nêu ra từ năm 1994 đến nay vẫn còn hiện hữu, có mặt còn phức tạp, nhất là nguy cơ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nguy cơ "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Khoa học lãnh đạo và quản lý đòi hỏi nhận thức và xử lý đúng đắn các mối quan hệ và những khả năng diễn biến và phát triển. Cần thiết phải nắm vững quan điểm, phương pháp duy vật biện chứng với sự nhìn nhận khách quan, toàn diện, phát triển. Khắc phục phương pháp chủ quan, nóng vội, duy ý chí, áp đặt, giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh nghiệm.
Để thực hiện tốt những mục tiêu định hướng quan trọng, Đại hội XIII nhấn mạnh: "Chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc biệt, mối quan hệ được bổ sung lần này là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả. Tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện".
Sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ lịch sử và toàn bộ tiến trình cách mạng. Từ xác định đúng mục tiêu, nội dung nhiệm vụ đền cách thức, phương thức lãnh đạo là những vấn đề căn bản gắn liền khoa học lãnh đạo, quản lý và lý luận xây dựng Đảng được kiểm định từ chính thực tiễn của cách mạng. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử lãnh đạo đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng phải đặt ra và xử lý đúng đắn hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn đất nước đang đặt ra.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Tổng Bí thư Tô Lâm trăn trở về Gia Lai và Tây Nguyên
“Điều trăn trở của Tổng Bí thư Tô Lâm với Gia Lai và Tây Nguyên”, kính thưa quý vị, trên đây là tiêu đề bài viết của tác giả Nguyên Minh được đăng tải trên báo Báo Công Thương điện tử tại trang web congthuong.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Đó là những điều được Tổng Bí thư Tô Lâm chia sẻ trong phát biểu khi làm việc với Tỉnh uỷ Gia Lai sáng 6/1/2025.
Những trăn trở gần 10 năm trước
Gần 10 năm trước, chiều 30/7/2016, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên tổ chức Lễ công bố Quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ. Khi ấy, Chủ tịch nước đã trao quyết định của Bộ Chính trị phân công Thượng tướng Tô Lâm - Bộ trưởng Bộ Công an (nay là Tổng Bí thư) giữ chức vụ Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên.
Trước đó 14 năm, ngày 17/7/2002, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên được thành lập trong bối cảnh tình hình an ninh, trật tự ở Tây Nguyên có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch, phản động gia tăng các hoạt động chống phá, lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, kích động biểu tình, bạo loạn, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại cuộc sống yên bình của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên...
Phát biểu tại buổi làm việc sáng 6/1, Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc lại những kỷ niệm thời ông làm Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nguyên, một ban chỉ đạo có chức năng nhiệm vụ chủ yếu trong lĩnh vực quốc phòng an ninh song ông đã rất quan tâm và nhìn thấy nhiều bất cập trong phát triển kinh tế xã hội ở Tây Nguyên.
Còn nhớ cuối năm 2017, theo chủ trương của Đảng, Ban chỉ đạo Tây Nguyên kết thúc hoạt động. Phát biểu tại buổi lễ hôm ấy, đồng chí Tô Lâm cho rằng: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử quan trọng của mình song bên cạnh những kết quả đã đạt được, kinh tế vùng Tây Nguyên vẫn gặp không ít khó khăn, thách thức như: tăng trưởng chưa thực sự bền vững, vẫn còn thấp so với tiềm năng, lợi thế vốn có của vùng; chất lượng của nền kinh tế chưa cao, thiếu ổn định; công tác quản lý bảo về rừng còn nhiều bất cập, tình trạng vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn diễn ra phức tạp, diện tích rừng bị chặt phá còn lớn...
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại buổi làm việc tại tỉnh Gia Lai sáng 6/1/2025. |
Đồng chí Tô Lâm cũng chỉ ra nhiều công việc cần làm như: Tiếp tục đề xuất các cơ chế đặc thù để huy động nguồn lực phục vụ kết nối cơ sở hạ tầng giao thông trên địa bàn Tây Nguyên và vùng phụ cận; thu hút đầu tư phát triển sản phẩm chủ lực, có lợi thế gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm như nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, công nghiệp chế biến, chăn nuôi đại gia súc, dịch vụ du lịch...; tập trung xử lý có hiệu quả vấn đề đất đai, chống phá rừng, bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tập trung thực hiện một cách có hiệu quả…
Câu hỏi lớn cho Gia Lai
Sáng ngày 6/1, lắng nghe báo cáo của đồng chí Hồ Văn Niên - Bí thư Tỉnh uỷ, Tổng Bí thư chỉ rõ, Gia Lai nằm ở trung tâm Tây Nguyên, rộng thứ hai cả nước, đất đai phì nhiêu, cảnh quan thiên nhiên đa dạng từ các cao nguyên đến thung lũng, sông suối, hồ, và rừng nguyên sinh. Tỉnh có tài nguyên du lịch phong phú với những danh lam thắng cảnh tự nhiên vẫn giữ được sự nguyên sơ, hấp dẫn đặc biệt, những nét văn hóa Tây Nguyên độc đáo, giàu bản sắc của vùng đất huyền thoại với kho tàng sử thi Tây Nguyên và không gian văn hóa âm nhạc cồng chiêng - "Di sản văn hoá phi vật thể" của nhân loại.
Gia Lai có diện tích rừng tự nhiên lớn, đó là thứ tài nguyên vô giá cần hết sức giữ gìn; có hệ thống giao thông kết nối thuận lợi với các tỉnh trong khu vực và các vùng kinh tế trọng điểm cả nước, làm tiền đề để thu hút đầu tư và phát triển giao thương…
Vậy thì nhiệm vụ lịch sử của Gia Lai hôm nay cần phải làm sao để vươn lên mạnh mẽ bằng đôi chân của mình, không nên tư duy chỉ trông chờ sự hỗ trợ của Trung ương.
Tổng Bí thư đề nghị tỉnh rà soát các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, tháo gỡ những ách tắc và điểm nghẽn phát triển, phấn đấu thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ 16 đã đề ra. Yêu cầu tỉnh khẩn trương rà soát các chỉ tiêu chưa thực hiện được và các điểm nghẽn phát triển để tháo gỡ, tạo bước đột phá mới. Tổng Bí thư yêu cầu tỉnh Gia Lai đẩy mạnh phát triển kinh tế dựa trên 3 trụ cột: nông nghiệp, du lịch, năng lượng tái tạo.
Tháo gỡ vướng mắc để có thể làm giàu từ năng lượng tái tạo
Ngay sau khi Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu, Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu, bày tỏ sự tâm đắc, đánh giá cao và rất quan tâm đến các vấn đề người đứng đầu ngành Công Thương đề xuất.
Từ phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Tổng Bí thư gợi ý thêm hướng làm giàu cho Gia Lai. Tổng Bí thư Tô Lâm quan tâm đến vấn đề tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các dự án năng lượng tái tạo.
"Theo kiến nghị của địa phương thì Bộ Công Thương nghiên cứu xem có thể bố trí tối đa (điện năng lượng tái tạo - PV) sản xuất được bao nhiêu? Đây là nguồn rất quan trọng đóng góp cho nguồn thu địa phương", Tổng Bí thư nêu vấn đề.
Theo Tổng Bí thư, hiện nay mới có 50% được các dự án điện gió được phát điện, còn 50% chưa được sử dụng. Đây là một sự lãng phí bởi các dự án đã làm rồi.
"Đây là vấn đề giữa nhà đầu tư - chính quyền, nhà nước đàm phán với nhau. Phải có cách tháo gỡ. Hiện còn hơn 10 dự án chưa tháo gỡ, nếu cứ để xuống cấp thì sẽ rất lãng phí, mà người ta đã đầu tư rồi nên cần phải tháo gỡ. Tiết kiệm không phải của chỉ Nhà nước mà còn phải tìm cách tháo gỡ khó khăn để tiết kiệm năng lượng cho doanh nghiệp, tư nhân, tiết kiệm nguồn lực xã hội", Tổng Bí thư chỉ đạo.
Tổng Bí thư cũng đề nghị tính toán tổng năng lượng cả điện gió, điện mặt trời khả năng phát triển của địa phương được bao nhiêu; đáp ứng của Bộ Công Thương để có thể đóng vào mạch điện truyền dẫn được bao nhiêu.
Về hướng đầu tư trung tâm dữ liệu, Tổng Bí thư cho rằng cần nghiên cứu, tính toán nếu có nguồn điện ổn định, bền vững thì lại có thể nghiên cứu chuyển đổi số, đầu tư trung tâm dữ liệu ở đây.
Về tiềm năng làm giàu, tăng nguồn thu từ năng lượng tái tạo, Tổng Bí thư lấy dẫn chứng từ tỉnh Quảng Trị một năm có thể đóng góp 20.000 MW, đóng góp 2.000 tỷ đồng cho ngân sách. Nếu Gia Lai mà có 20.000 tỷ đồng thì quá tốt. Tổng Bí thư yêu cầu phải tính toán, rất cụ thể để có thể làm được những việc như vậy.
Để người dân Tây Nguyên giàu từ công nghiệp chế biến và thành tỷ phú trên mỗi hecta đất
Từ phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên về các giải pháp phát triển công nghiệp và thương mại, Tổng Bí thư Tô Lâm quan tâm và gợi ý vấn đề phát triển công nghiệp chế biến.
Theo Tổng Bí thư, cần có các nhà máy sản xuất chế biến nông sản theo tiêu chuẩn của châu Âu, Hoa Kỳ. "Nghiên cứu Nhà nước đầu tư được không, hay công ty tư nhân lớn, tập đoàn nào có thể đầu tư quy mô lớn để tạo chuỗi cung ứng, xuất khẩu. Nếu Nhà nước không làm được mà không huy động được doanh nghiệp tham gia thì mãi chỉ xuất thô. Nếu không tập trung làm thì sẽ không có được sản phẩm chất lượng cao, giá trị gia tăng cao", Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc lại kỷ niệm thời làm Trưởng ban chỉ đạo Tây Nguyên, ông đã có phát động phong trào để người dân Tây Nguyên làm sao cứ 1 hecta đất, phải thu về 1 tỷ đồng/năm và cũng đã từng tổ chức hội nghị để tìm giải pháp để thực hiện vấn đề này.
"Tại Hội nghị đã diễn ra, một đại biểu Lâm Đồng cho biết 1 hecta đất thu về tới 26 tỷ đồng trồng rau, hoa, quả xuất khẩu đi Nhật Bản, thu về 26 tỷ đồng/ha. Hoặc như trồng sầu riêng 1 năm thu về 3 - 5 tỷ đồng/ha. Đồng bằng Bắc Bộ trồng lúa thì không được 100 triệu đồng/ha đất/năm; tại Đồng Tháp tôi đến làm việc hôm vừa rồi trồng lúa được 78 triệu đồng/ha/ năm, trồng cây ăn quả thu về 500 triệu đồng/ha/năm, trồng hoa cây cảnh thì thu 600 triệu/ha/năm, nuôi cá tra thì thu về 3,9 - 4 tỷ đồng/ha/năm", Tổng Bí thư nêu rõ từng ví dụ sinh động để gợi ý cho Gia Lai hôm nay.
Tổng Bí thư đề nghị Gia Lai cũng phải nhìn đó để thực hiện theo. Bởi Gia Lai sở hữu một diện tích sản xuất nông nghiệp lớn song 5ha đất mà mỗi năm chỉ thu được 80 triệu đồng, rất vất vả mà lại không hiệu quả. Nếu một người dân có 1 hecta mà thu được 1 tỷ/năm thì sẽ khác.
"Đây là các gợi ý để Gia Lai suy nghĩ biện pháp làm sao để cho người dân giàu lên từ mảnh đất của mình. Nông nghiệp thì đúng là có lúc cần miễn thuế cho nông dân, nhưng người dân giàu lên rồi thì tiêu dùng sẽ tăng, nhà nước sẽ thu từ các khoản thuế tiêu dùng", Tổng Bí thư chỉ đạo.
"Rất khuyến khích phát triển nông nghiệp, làm sao một hecta đất phải đặt ra mục tiêu trồng cây gì, nuôi con gì để người dân có thể thu được 1 tỷ đồng/ha. Đến các địa phương như Sơn La, Lâm Đồng để học hỏi các kinh nghiệm", Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã giải đáp cụ thể một số kiến nghị của Gia Lai.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, Gia Lai là địa phương có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển, diện tích rộng, đất đai thổ nhưỡng phì nhiêu, địa hình đồi núi, cao nguyên và thung lũng đồng bằng xen kẽ, hình thành khí hậu đặc trưng riêng của mỗi khu vực, là tiền đề thuận lợi để phát triển ngành nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát triển công nghiệp - thương mại, nhất là công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo.
Để khai thác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh Gia Lai, góp phần thúc đẩy kinh tế tỉnh những năm tiếp theo, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã nêu rõ 5 kiến nghị ở góc độ ngành Công Thương.
Thứ nhất, tập trung nghiên cứu yêu cầu thị trường trong nước, các nước trong khu vực, nhất là các nước trong các FTA mà Việt Nam là thành viên, để hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại để hình thành các chuỗi sản xuất khép kín từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ; chú trọng xây dựng quảng bá thương hiệu sản phẩm chủ lực, vùng trồng, vùng nuôi để có thể đưa vào các thị trường khó tính.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu có cơ chế chính sách để thu hút đầu tư các doanh nghiệp vào công nghiệp chế biến, chế tạo để tăng giá trị xuất khẩu vào các mặt hàng nông lâm chủ lực như cà phê, hồ tiêu, cao su, các ngành về gỗ. Thúc đẩy các ngành khai thác chế biến nông sản để tạo dư địa mới tăng trưởng cho địa phương cũng như tạo nguồn cung đầu vào cho ngành chế biến cả nước. Có cơ chế hấp dẫn để các doanh nghiệp phát triển logistics để phát huy tiềm năng nỏi trội của địa phương là cửa ngõ của các nước Đông Nam Á, của miền Trung - Tây Nguyên.
Chú trọng, tạo điều kiện để các dự án đầu tư năng lượng hoạt động có hiệu quả. Trước mắt là chủ động đề xuất với Trung ương và Chính phủ cho tháo gỡ các dự án năng lượng tái tạo đã đầu tư. Trong 168 dự án theo kết luận của Thanh tra Chính phủ thì tỉnh Gia Lai có khoảng 7 - 8 dự án cần tháo gỡ, ngoài ra còn hàng chục dự án không nằm trong kết luận nhưng cũng có các vướng mắc tương tự.
"Đề nghị tỉnh Gia Lai có kiến nghị sớm để Bộ Công Thương có trình Chính phủ xem xét sớm tháo gỡ, càng giải quyết sớm bao nhiêu thì nguồn lực đưa vào phục vụ kinh tế địa phương càng tốt bấy nhiêu", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Thứ ba, chú trọng phát triển các loại hình du lịch. Gắn du lịch với thương mại, gắn du lịch - thương mại với xuất khẩu tại chỗ, thông qua hợp tác sản xuất bán sản phẩm tại các địa du lịch ngay tại địa phương. Đây là hình thức đã được thực hiện hiệu quả ở nhiều địa phương.
Thứ tư, thông qua tạo đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia để thúc đẩy chuyển đổi số trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là trong kinh tế - thương mại - đầu tư.
Thứ năm, tập trung đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực phục vụ các ngành công nghiệp chủ lực của địa phương, đồng thời quyết liệt trong cải cách hành chính tạo sự thông thoáng trong thủ tục đầu tư.
Kính thưa quý vị! Chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe. Rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.