Hơn cả bạc vàng
Thực hiện Thanh Thảo - Huy Hoàng
24/02/2025 16:57

“Hơn cả bạc vàng” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trong gian nhà được coi là gian nhà thờ của đại gia đình, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn còn lưu giữ một chiếc cân tiểu ly nhà nghề khi xưa mà cụ hàng coi là một thứ kỷ vật giàu ý nghĩa.

Dường như cụ muốn nhắc nhủ các cháu con hãy luôn giữ một tấm lòng ngay thẳng, trung thực trong nghề nghiệp cũng như trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Chữ "Tín" trong nghề vàng bạc mới là chữ đáng coi trọng nhất.

undefined
Hà Nội bảo tồn nghề vàng bạc

Thoạt nhìn, đôi vợ chồng người thợ kim hoàn Tân - Dung ở nhà số 10 phố Hàng Bạc nom có vẻ như không cân xứng tuổi tác. Khách vào nhà, có người gọi vợ là chị mà lại gọi chồng là bác. Nhưng rồi có sao, ba mươi năm qua họ vẫn chung sống thuận hoà, ấm êm bên nhau, sinh con, nở cháu, làm ăn phát đạt, tấn tới.

Người góp công đầu tác thành nên đôi, nên lứa cho anh và chị chẳng phải đâu xa. Đó chính là ông thầy dạy nghề của anh. Và ông cũng chính là bố đẻ của chị. Ông là nghệ nhân kim hoàn Nguyễn Văn Mẫn. Cái lý mà ông kén rể khi xưa, thật rất giản dị:

- Anh ấy tuy hơi lớn tuổi, song người thật thà, trung hậu, lại giỏi tay nghề nhất trong số thợ cùng lứa. Bởi vậy, không những con mà cha mẹ và các em cũng có thể nhờ cậy. Cha chỉ luôn mong điều tốt cho các con. Trong cuộc đời làm nghề bao năm, chẳng những anh chị Tân

- Dung đã học được ở người cha, người thấy của mình những kỹ xảo của nghề kim hoàn, mà còn học được ở ông những phẩm cách cao quý của người thợ chân chính, cũng như trách nhiệm và bồn phận nhất thiết của một con người trong gia đình và ngoài xã hội.

Bà Nguyễn Thị Hạnh, con gái phố Hàng Mắm làm dầu phố Hàng Bạc là một trong những người hàng xóm đồng thời là khách hàng của hiệu vàng Tân Dung rất tín nhiệm tay nghề và phong cách giao tiếp của ông chủ:

- Ông Tân làm hàng rất khéo, vào diện thợ cao tay nghề ở phố Hàng Bạc này. Ông ăn nói lại rất nhỏ nhẹ, từ tốn, khiêm nhượng. Ai ai cũng yêu quý, tín nhiệm. Nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn vốn quê gốc ở làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, Thái Bình. Song gia đình ông đã sinh sống và lập nghiệp gần nửa thế kỷ trên đất Hà Nội, tại chính dãy phố Thịnh Yên này. Vào những năm dưới chế độ bao cấp đầy gian nan, khó khăn, nhà nước quản lý ngặt nghèo, biết bao thợ kim hoàn đã phải bỏ nghề. Song ông thì như một số đồng nghiệp giàu tâm huyết, vẫn âm thầm, đau đáu giữ nghề. Ông còn hơn người là ở chỗ, đã kiên nhẫn, bền bỉ truyền nghề cho tất cả tám đứa con trai gái trong nhà, bất chấp bao khúc thăng trầm thế sự. "Hoàng thiên bất phụ hảo nhân tâm" - Ông trời chẳng phụ người có lòng, đến bây giờ, chẳng có gia đình thợ kim hoàn nào ở Hà Nội được như ông, cả tám người con đều đã phương trưởng và hiện đang làm chủ tám cửa hiệu kim hoàn lớn nhỏ trên các phố.

Ở tuổi ngoại tám mươi, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn đã từ lâu rời xa chiếc bàn nghề xưa cũ. Nhưng lâu lâu, ông vẫn giữ thói quen đi lại thăm thú lần lượt các cửa hiệu vàng của tám người con. Ông thường đi bộ, nói là để rèn luyện cho khoẻ đôi chân. Nơi mà ông thường đến thăm nhiều nhất là cửa hiệu vàng mang tên Đức Hạnh, nằm trên phố Nguyễn Công Trứ, rất gần với khu chợ Thịnh Yên. Đó là cửa hiệu được khách nhất trong số tám cửa hiệu của gia đình. Mái tóc bạc phơ của nghệ nhân nghiêng ngiêng bên chiếc tủ hàng ngồn ngộn, lóng lánh, đỏ rực những dây chuyền, hoa hột, nhẫn vòng theo đủ các kiểu dáng cổ điển hay hiện đại. Đôi mắt già nua nhưng hãy còn khá tinh tường đang xem xét, phẩm bình chiếc lắc vàng mười vừa kịp rời ngọn lửa đèn nghề trong tay cậu thợ trẻ. Chỉ cần quan sát gương mặt của cha và độ giãn nở của đôi lông mày bạc trắng, là cô con gái yêu Nguyễn Thị Hạnh đã có thể hiểu được mức độ hoàn mỹ của một sản phẩm mới:

- Cha tôi rất nghiêm khắc, rất cẩn thận. Hàng vàng bạc quý giá lại cần được chế tác tỉ mỉ, tinh tế. Sai lệch tý ty thôi cụ cũng bắt làm lại. Kỳ bao giờ được như ý mới thôi. Khách hàng hài lòng là ở chỗ đó.

Tất cả các cửa hiệu kim hoàn của các con, ông đều chọn lấy chữ Đức đặt làm đầu. Đức Hạnh, Đức Thành, Đức Thịnh... ý là để khuyên nhủ các con giữ lấy chữ đức làm gốc là trước nhất. Bà chủ hiệu vàng Đức Thịnh và khách sạn Đức Thịnh trên phố Mai Hắc Đế chính là một trong số sáu cô con gái của nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn. Chị Nguyễn Thị Phương kinh doanh ổn định, chắc chắn, nhà cửa khang trang, đàng hoàng, con cái ngoan ngoãn, học hành tấn tới. Chị coi đó là nguồn hạnh phúc to lớn không dễ có. "Uống nước nhớ nguồn", mang nặng tấm lòng tri ân với cha mẹ, với quê hương, bản quán, với nghề tổ cha ông, chị thường không quên việc thăm nom, giúp đỡ gia đình, họ hàng và thường dành những khoản tiền đáng kể để đóng góp công đức cho các di tích văn hoa, lịch sử và các hoạt động nhân đạo xã hội. Ngay từ những năm chín mươi của thế kỷ trước, chị đã là một trong những người đầu tiên tham gia vào chương trình Địa chỉ cho những tấm lòng từ thiện của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội và là một trong những hội viên tích cực của Hội Tán trợ chữ thập đỏ phường Bùi Thị Xuân, quận Hai Bà Trưng. Mỗi năm, tuy không nhiều, nhưng gia đình chị cũng dành dăm ba triệu đồng cho các việc công đức, từ thiện. Noi gương mẹ, cô con gái đầu lòng đang học lớp 11 Trường trung học phổ thông Trần Phú của chị mỗi tháng cũng đã dành vài ba chục ngàn đồng tiền tiết kiệm để giúp đỡ bạn nghèo trong lớp mua sách vở.

Ngày đầu xuân năm mới, nơi mà bà chủ hiệu vàng Đức Thịnh chọn đến thăm và tặng quả từ thiện chính là nhà nuôi trẻ mô côi của quận Hai Bà Trưng, Mi ăn liền, bánh kẹo, sách vở và tiền mặt. Những món quà bé nhỏ nhưng thắm đượm nghĩa tình lá lành đùm lá rách. Bác sĩ Nguyễn Kim Chung, Phó chủ tịch Hội chữ thập đỏ Hà Nội luôn bày tỏ sự khuyến khích, động viên những gia đình như vậy:

- Cha mẹ làm việc từ thiện thường xuyên thì quá tốt rồi. Nhưng gieo mầm thiện cho cháu con theo được lâu bên mới là điều đáng quý. Ước sao thủ đô mình ngày một có thêm những gia đình thiện nguyện nhiệt tâm như thế.

Cuộc sống hằng ngày không phải bao giờ cũng dễ dàng, trôi chảy. Trong nhà, chồng bát cũng có khi xô. Nhưng cái chính là luôn phải giữ cho gia đình, và nhất là cho cha mẹ già một không khí nhẹ nhõm, thoải mái. Một bát cháo nóng, một ấm trà ngon, nhà nào mà không sẵn. Nhưng "miếng trầu không nặng, nặng hai tay bưng". Người con dâu của cụ Mẫn rất thấu hiểu điều này. Xưa kia, người Hà Nội từng có ấn tượng không hay với thành ngữ: "dân chợ Trời". Nhưng ở đâu cũng vậy, và thời nào cũng vậy, một nếp nhà vững chãi, luôn là chỗ dựa tinh thần cho tất thảy các thành viên trong gia đình. Càng trong những hoàn cảnh bất lợi, thì những phẩm chất tốt đẹp càng thêm tỏả rạng. Làm dâu trưởng trong một gia đình đông anh em chồng mà bao năm không hề có chuyện xô sát, điều tiếng ầm ĩ, phải chăng chỉ do từ một phía? Người con dâu cụ Mẫn là Nguyễn Thị Giới đã chia sẻ một cách giản dị:

- Tôi may mắn được làm dâu trong một gia đình nề nếp, các em cũng đều là người dễ dãi, biết điều, nên gia đình khi nào cũng giữ được bầu không khí thân mật và thoải mái. Chứ thật thà mà nói thì tôi cũng không được khéo léo đảm đang như nhiều người đầu.

Còn ông cụ bố chông thì lúc vắng mặt, vẫn khen cô con dâu:

- Chị ấy đã được ông bà nhạc dạy dỗ cẩn thận. Ăn ở cũng mộc mạc, chân tình. Bởi thế mà từ khi chị ấy về làm dâu cho đến nay đã hơn hai chục năm mà chưa hề phải nghe tôi và bà nhà tôi nói nặng một lời.

Giờ đây, chợ Hoa Bình đã khác xa chợ Trời xưa. Việc kinh doanh, buôn bán tự do, đường hoàng theo cơ chế kinh tế đổi mới đã khiến cho nếp giao tiếp, ứng xử của người dân nơi đây ngày một hòà đồng với cả xã hội. Vả lại, quan niệm chung của xã hội về nghề buôn bán, thương mại cũng không còn hẹp hòi và một chiều như trước. Gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn cũng là một trong số các gia đình gương mẫu đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa nhiều năm liên tục của khu vực dân cư phố Thịnh Yên.

Trong gian nhà được coi là gian nhà thờ của đại gia đình, nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn còn lưu giữ một chiếc cân tiểu ly nhà nghề khi xưa mà cụ hằng coi là một thứ kỷ vật giàu ý nghĩa. Dường như cụ muốn nhắc nhủ các cháu con hãy luôn giữ một tấm lòng ngay thẳng, trung thực trong nghề nghiệp cũng như trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày. Chữ "Tín" trong nghề vàng bạc mới là chữ đáng coi trọng nhất.

Trong cửa hiệu nhà dưới, bà khách hàng quen người bên phố Huế đang ngắm nghía mấy mẫu kiềng vàng, lắc vàng tươi cười vui vẻ:

- Tôi buôn bán nhỏ. Cứ chắt bóp được ít tiền là lại ra hàng cụ mua một vài chỉ vàng cất đi dành dụm. Bây giờ lại mua của con trai con dâu cụ. Cân lượng đầy đủ chả bao giờ phải lo nghĩ. Hôm nay tôi đang định đặt bộ vòng kiềng với lắc tay để sang tháng cho con gái đi lấy chồng. Mấy mẫu đều đẹp, đâm ra hơi khó chọn,

Lứa cháu chắt của cụ giờ đây cũng không hoàn toàn theo nghề cha ông. Chúng cũng có những ước mơ mới và những sự lựa chọn mới. Những kỷ vật của ông bà, chúng có thể coi như là trong những câu chuyện cổ tích. Nhưng mà có rất nhiều thứ trong ngôi nhà này vẫn luôn hấp dẫn và thu hút chúng, cho tới tận mai sau. Phải chăng, đó cũng chính là những bảo vật vô hình mà có thể, còn quý giá hơn cả bạc vàng? Cô cháu ngoại của cụ Mẫn tên là Nguyễn Thị Ngọc Hà, hiện đang là sinh viên trường Đại học khoa học xã hội nhân văn thỏ thẻ tâm sự:

- Từ khi cháu còn nhỏ vẫn thường thích sang chơi bên ông ngoại, nghe ông đọc Truyện Kiều, nghe ông kể chuyện quê hương với nghề chạm bạc mà ông và các cậu các di, các bác trong nhà theo đuổi. Cả những câu chuyện về đường ăn ý ở của người con gái trong gia đình phải như thế nào? Cháu rất yêu kính ông bà.

Ngày mồng chín tháng Giêng hàng năm là một trong nhưng ngày mà lão nghệ nhân Nguyễn Văn Mẫn hằng mong mỏi nhất. Ấy chính là ngày hội của làng Thịnh Yên, ngày hội chùa Vua. Vào ngày này, dù không lời hẹn trước, các thế hệ trong gia đình nghệ nhân đều tụ hội về bên người ngôi nhà cha mẹ. Bao giờ cũng vậy, lão nghệ nhân sẽ dẫn đầu cả một đoàn con cháu quần trắng áo dài rực rỡ, complett cavat thịnh soạn sang chùa lễ Phật và xem đấu cờ người, một trò vui đặc biệt của hội làng Thịnh Yên. Tiếng trống hội thì thùng lắc cắc sao mà thân thiết và thiêng liêng và ấm lòng đến vậy.

Cuộc cờ người thu quân, cha con lại cùng nhau trở về gian nhà thờ trên căn gác hai, làm lễ kính cáo tổ tiên. Trong làn khói hương trầm nồng ấm, thêm một lần niềm tự hào của nghề tổ được nhắc nhớ, thêm một lần tình gia tộc được thắt chặt. Thiêng liêng và bình dị biết bao. Bên ngoài khung cửa, trên dãy phố Thịnh Yên, một mùa lộc biếc lại dâng đầy trên những cây cơm nguội gốc xù xì sẵm màu năm tháng.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

rewind
play
fast-forward
00:00
/
00:00
Hành trình đi tìm ngọc

Hành trình đi tìm ngọc

“Hành trình đi tìm ngọc” là nội dung bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe bài viết.

Bài viết:

Hàng trăm câu ca dao, ngạn ngữ được tập hợp trong hai cuốn sách đã trở thành bộ tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm của đất nước và con người Hà Nội. Chúng tỏ ra vô cùng hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học, lịch sử, địa lý và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn của giáo viên và học sinh các cấp, đặc biệt là ở bậc đại học. Tuy nhiên, bao năm chiến tranh, giặc giã, các điều kiện nghiên cứu, sưu tầm tập hợp còn rất sơ sài, thiếu thốn. Bởi vậy chúng ta khó có thể đòi hỏi một kết quả khả dĩ hơn.

Thạc sĩ Nguyễn Thị Phương Châm vốn không phải là người gốc Hà Nội. Chị sinh ra và lớn lên trên một miền quê thuộc xứ Kinh Bắc xưa. Duyên may đưa chị đến với công trình nghiên cứu về phong cảnh Hà Nội qua những câu ca dao ngạn ngữ có lẽ bắt đầu từ cách đây gần chục năm, khi chị đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi văn toàn quốc cấp phổ thông trung học. Đề bài là bình giảng câu ca dao: Gió đưa cành trúc la đà / Tiếng chuông Trấn võ, canh gà Thọ Xương / Mịt mù khói tỏả cành sương / Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Sau này, khi trở thành một cán bộ nghiên cứu khoa học ở Viện Văn hóa dân gian, chị đã dành nhiều tâm sức cho công trình nghiên cứu ca dao ngạn ngữ Hà Nội về đề tài phong cảnh, con người Hà Nội. Và chính bằng công trình ấy, chị đã được trường đại học khoa học xã hội và nhân văn quốc gia chọn mời thỉnh giảng thường kỳ hàng năm cho sinh viên ở bộ môn văn hóa cơ sở. Càng say mê theo đuổi công trình, chị càng phát hiện thêm những vẻ đẹp khôn cùng của ca dao ngạn ngữ Hà Nội. Đâu chỉ là phong cảnh thiên nhiên hữu tình, danh lam thắng tích đậm đặc, cổ kính, thiêng liêng mà còn là tình người Hà Nội thiết tha, nồng đượm: Sông Tô nước chảy trong ngần / Có con thuyền trắng chạy gần chạy xa / Thon thon đôi mái chèo hoa / Lướt qua lướt lại như là bướm gieo.

Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Chu Hà đã bước vào tuổi xấp xỉ chín mươi. Lưng ông còng còng, trĩu nặng gánh thời gian song xem ra dáng đi còn mau mắn, nhanh nhẹn, đôi mắt tinh anh, hiền từ. Ông là người gốc Ý Yên, Nam Định nhưng sinh sống ở Hà Nội đã gần sáu mươi năm, nhà ở phố Hàng Bột cũ nay là phố Tôn Đức Thắng. Nhà thơ Chu Hà là cán bộ cựu trào của ngành văn hóa thông tin Hà Nội. Lãnh vực nghiên cứu mà ông chuyên sâu và dày công nhất chính là hát ca trù - hát ả đào. Bao câu hát ca trù đẹp như những áng thơ đã được ông sưu tầm, ghi chép và truyền lại cho lớp trẻ. Nhưng công trình mà ông tâm đắc nhất là ông đã cùng nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Vũ Tuấn Sán, người làng Lủ, thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì và hai nhà giáo là Phạm Hòa (trường phổ thông trung học Việt Đức) và Triêu Dương (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1) cùng tham gia sưu tầm và soạn thảo hai tập Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, từ những năm sáu mươi, bẩy mươi của thế kỷ trước.

Phạm vi đề cập của hai cuốn sách đó thật rộng lớn. Nào là ca dao ngạn ngữ về đề tài lịch sử, văn hóa danh lam, thắng cảnh, di tích, sản vật, con người, nghề nghiệp, phong tục, tập quán, lễ hội, phong cách ứng xử gia đình, xã hội... Hàng trăm câu ca dao, ngạn ngữ được tập hợp trong hai cuốn sách đã trở thành bộ tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm của đất nước và con người Hà Nội. Chúng tỏ ra vô cùng hữu ích cho công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học, lịch sử, địa lý và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn của giáo viên và học sinh các cấp, đặc biệt là ở bậc đại học. Tuy nhiên, bao năm chiến tranh, giặc giã, các điều kiện nghiên cứu, sưu tâm tập hợp còn rất sơ sài, thiếu thốn. Bởi vậy chúng ta khó có thể đòi hỏi một kết quả khả di hơn. Bây giờ, nói sao thì nói, đã ở tuổi gần đất, xa trời, nhà thơ Chu Hà không khỏi có những điều thật ngậm ngùi, tiếc nuối:

- Hồi Mỹ đánh bom Hà Nội. Nhà ngày ấy chẳng có gì gọi là đáng giá. Chỉ có tập vở tôi ghi chép những câu ca dao, ngạn ngữ mới sưu tầm được là tôi quý nhất. Liền cho vào cái két sắt cũ của nhà chủ ngày xưa để lại, khóa chặt. Nghĩ thế là chắc chắn nhất.

Không ngờ, sau một đợt đi công tác trở về, lấy ra soạn lại, thì mỗi đã xông mất hết. Tiếc đến bây giờ vẫn chưa nguôi…

Bao điều trăn trở, nhưng ở tuổi xấp xỉ cửu tuần, ông không thể còn xoay xỏa nổi. Nhưng thật may, kế tiếp sự nghiệp của các bậc lão làng, có một người không kém phần tâm huyết. Đó chính là nhà thơ, nhà báo Giang Quân. Ở độ tuổi ngót nghét tám mươi, tóc cũng đã bạc phơ phơ, ông cũng vốn là một cán bộ cựu trào sau lớp cụ Chu Hà của Sở văn hóa thông tin Hà Nội.

undefined
Thủ đô Hà Nội xưa

Ông tham gia nghiên cứu, gắn bó với ca dao, ngạn ngữ Hà Nội đã trên nửa thế kỷ. Hai cuốn sách của các bậc tiền bối đã là cơ cở vững chãi để ông tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm. Bởi kho tàng ca dao, ngạn ngữ của vùng đất đế kinh ngàn năm này thật vô cùng phong phú và giàu đẹp... Biết bao điều còn ẩn chứa trong nhân gian rộng lớn. Cho đến năm tròn tuổi thất thập, ông mới cho công bố một cuốn sách là kết qủa của trên nửa thế kỷ đằng đẳng miệt mài. Cuốn Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ bao gồm 500 câu, như tên gọi của nó, chỉ khuôn đề tài vào một lĩnh vực hẹp hơn, song chính là tập trung hơn, khu biệt hơn và nổi rõ đặc trưng Hà Nội hơn.

Phong cảnh, địa danh, con người, sản vật, nghề nghiệp, lễ hội của vùng đất ngàn năm văn hiến. Nhưng có một phần được bổ sung và chỉnh lý cũng như chú giải kỹ lưỡng hơn. Đặc biệt có tập hợp thêm các câu ca dao ngạn ngữ mới của thời kỳ cận đại và hiện đại của Hà Nội. Một thời gian dài, nhà thơ, nhà báo Giang Quân lại đang tiếp tục sưu tầm, tập hợp thêm trên hai trăm câu ca dao, ngạn ngữ của các vùng nội ngoại thành Hà Nội cho việc tái bản cuốn sách vào năm 2002. Ông coi đây là một công trình không của riêng mình hướng tới dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long - Hà Nội.

Trong mấy năm rong ruổi khắp các vùng nội ngoại thành, niềm vui lớn nhất của ông là phát hiện được thêm những câu ca dao, ngạn ngữ bao năm còn ẩn dấu trong dân gian, chưa hề được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó là hàng trăm dị bản của các câu ca dao, ngạn ngữ của từng miền quê theo những mô tuýp biến thể cổ truyền. Chuyến về thăm vùng bưởi Diễn cách đây không lâu là một trong những chuyến đi may mắn của ông. Sau đây là mấy câu ca dao, hay chính là những viên ngọc quý mà ông vừa thu lượm trong chuyến đi ấy. Chợ Diễn một tháng sáu phiên / Bưởi vàng trái ngọt ai quên nhớ về.

Và điều tâm đắc nhất của ông là đã sưu tầm được những câu ca dao Hà Nội thời cận đại. Trong đó có những câu ông sưu tầm được chính ở dãy phố Khâm Thiên nơi mà gia đình ông cư trú từ sau ngày giải phóng thủ đô. Nguyên trước cách mạng Tháng Tám năm 45, Khâm Thiên vẫn còn là một phố cô đầu, nhà hát "lừng danh". Dân ăn chơi đất Hà Thành gen gọi là phố "Chị em". Hôm gặp lại nhà thơ Chu Hà, ông đã tủm tỉm đọc cho người đàn anh nghe mấy câu: Tối thì đẹp tựa tiên sa / Ngày nom rũ rượi như gà mắc mưa / Báu gì hương chạ hoa thừa / Thà rằng chẵn lẻ Hai Cua cho rồi.

Và ông nói rằng, thoạt đầu không hiểu chữ Hai Cua là gì. Hỏi ra sau mới biết rằng đó chính là một sòng bạc cũng vào loại "ác chiến" ở phố Khâm Thiên ngày trước. Bên ẩm trà Tàu đặc sánh, câu chuyện của hai bậc lão làng tưởng như khó có chỗ dứt.

Tóc xoã ngang vai xanh mướt, ở tuổi vừa tròn tam thập, may mắn hơn các bậc tiền bối của mình, thạc sĩ Nguyễn Phương Châm bước sang năm đầu thế kỷ mới, đã gấp rút chuẩn bị tài liệu cho luận văn nghiên cứu sinh học vị tiến sĩ cũng xung quanh đề tài Văn hóa tộc người Việt sinh sống trên đất nước Trung Hoa. Nhưng song song cùng với bản luận văn, sẽ vẫn là những bài giảng trên lớp cho sinh viên Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn về đề tài ca dao ngạn ngữ phong cảnh của Hà Nội. Có người từng thắc mắc trên sóng Đài phát thanh - truyền hình Hà Nội rằng: "Sao lại đọc lầm chữ đền thành chữ chùa trong một câu ca dao cũ": Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ / Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.

Thực ra là không lầm đâu! Trong bài giảng sắp tới, cô sẽ chú thích rõ hơn xuất xứ của câu ca dao là từ thời Lê Trịnh. Khi ấy đền Ngọc Sơn vốn còn đang là một ngôi chùa thờ Phật quanh năm nghi ngút khói hương.

Cũng bắt đầu từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, khi internet phát triển và bắt đầu từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, khi mạng xã hội mở rộng thì đó chính là cơ hội tốt đẹp để nở rộ việc phát lộ và thu thập ca dao, tục ngữ thành ngữ ở các địa phương, kể cả ở các vùng đất thuộc xứ Đoài, Hà Tây xa xôi khi được sáp nhập về Hà Nội. Nhanh nhậy bắt nhịp với nhu cầu tất yếu của thời đại, dăm năm trước, Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội do GS - TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội và PGS - TS Đỗ Thị Hảo, Phó Chủ tịch Hội kiêm chủ nhiệm đề tài đã đề xuất với Thành phố Hà Nội mở một dự án sưu tầm ca dao tục ngữ mới. Dự án tuy chưa kết thúc nhưng đã thu được những thành quả ban đầu tốt đẹp, thu thập được hàng ngàn câu ca dao tục ngữ ở các địa phương vùng Hà Nội cũ và Hà Nội mở rộng.

Có những câu ca dao xưa chỉ được lưu truyền trong địa vực làng xã bé nhỏ nay đã được đông đảo người dân trong và ngoài nước biết đến. Đơn cử như bài ca dao ca tụng sự chăm chỉ và tài khéo người dân làng nghề bánh gai Yên Sở thuộc vùng kẻ Giá, huyện Hoài Đức: Bánh gai làng Giá thơm ngon / Con gái làng Giá tươi giòn sắc xuân / Giã lá, xay bột chuyên cần / Khéo tay gói bánh người ăn tìm về.

Hay là mấy câu ca dao ở làng bánh gio Đắc Sở cũng thuộc vùng kẻ Giá bên dòng sông Đáy nói về một phẩm chất của đặc sản nổi danh của làng quê: Bánh gio trong hổ phách / Dẫu có đắt cũng mua / Bánh gio màu nước dưa / Dẫu có cho chả đắt.

Một câu ca dao khác của làng nghề bánh dày Quán Gánh, huyện Thường Tín ca tụng giá trị của đặc sản quê hương bằng giải pháp khoa trương đôi khi gặp trong ca dao tục ngữ: Cho dù chồng chán vợ chê / Bánh dày Quán Gánh lại về với nhau.

Nhà thơ Yên Giang vốn là Trưởng phòng Phòng Sáng tác và xuất bản Sở Văn hóa thông tin Hà Tầy và đã từng chủ biên cuốn sách Ca dao tục ngữ Hà Tây dày tới 700 trang. Sau khi Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội, tham gia vào Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội, ông là người rất tích cực và bền bỉ tham gia dự án sưu tầm tục ngữ ca dao mới của Hội văn nghệ dân gian Hà Nội với hàng trăm câu.

Nét đặc biệt trong bộ sưu tập của ông là những câu ca dao tục ngữ mới về để tài phản biện xã hội. Ông rất tâm đắc với quan niệm của người xưa:

Ngày xưa đức Khổng Tử bên Trung Hoa từng khuyên các đấng quân vương nên cử người thâm nhập vào đời sống của người dân mà thu thập những câu ca dao ngạn ngữ, những câu chuyện tiếu lâm có tính giều cợt, chống đối thể chế để từ đó nghiên cứu, phân loại ý kiến đúng sai, rồi nương theo mà sửa đổi chính sách cai trị sao cho hợp lòng dân, cũng là vì sự thịnh trị lâu dài của xã tắc.

Hơn hai mươi năm sau, cô sinh viên cao học Nguyễn Thị Phương Châm ngày nào nay đã trở thành PGS - TS Nguyễn Thị Phương Châm và đã được bổ nhiệm cương vị Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Thật mừng cho Phương Châm nhưng cũng hơi có chút ngậm ngùi khi nghe cô nói lâu rồi không còn giảng dạy hay nghiên cứu đề tài ca dao tục ngữ nói chung và ca dao tục ngữ Hà Nội nói riêng nữa.

Thế gian bao năm biến cải, đổi dời. Chẳng còn đâu nữa bóng dáng những bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái, chợ đêm Khán Xuân, sâm cầm hồ Tây... Bao giờ cho nước sông Tô trở lại trong ngần? Nhưng nỗi ao ước của cô giáo trẻ người gốc Kinh Bắc một ngày xa xưa ấy, phải chăng cũng chính là nỗi mong ước đau đáu trong lòng mỗi người dân thủ đô trong hiện tại?

Mong sao các nhà quy hoạch, kiến trúc xây dựng thủ đô dù có kiến thiết, sửa sang, tôn tạo thành phố cho hiện đại, mới mẻ đến như thế nào cũng vẫn nên giữ lại những dáng nét kiến trúc và phong cảnh đặc sắc của đất Kinh kỳ Thăng Long, cho xứng danh là nơi mãi mãi "Lắng hồn núi sông ngàn năm".

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ

Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ

“Dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, trân trọng kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Không gian dưới mái nhà ngói cổ trầm mặc mầu quá vãng và thơm ngát khói hương. Những câu chuyện của năm bẩy trăm năm trước đang lần lượt hiện về theo dòng hồi ức của các vị hậu duệ cao niên trong dòng họ.

Vị tiến sĩ khai khoa của dòng họ Dương ở Hà Lỗ chính là Dương Văn Đán, ông đỗ đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng Giáp vào năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông, năm 1463. Hoàng giáp Dương Văn Đán đã từng được nhà vua cử đi sứ nhà Minh và được bổ làm quan đến chức Tham chính sứ, chức quan phụ trách hành chính thứ hai tương đương như phó chủ tịch một tỉnh thành lớn giờ đây.

Đầu tháng Ba âm lịch, những làn nắng non tơ mới mẻ còn chưa kịp xua tan những cơn mưa phùn ẩm ướt.

Đất trời xứ Bắc dường như đang ngây ngất trong một bầu hương thơm dịu dàng, thanh khiết của hoa bưởi, hoa cam, hoa nhãn, hoa xoan.

Những ngõ xóm trong ngôi làng cổ Hà Lỗ đâu đó còn vương vấn phong vị của những ngày hội làng mùa xuân chưa qua in trên những dây cờ hoa phấp phới chăng ngang trên cao và cổng ngõ nhà ai còn dán hình những câu chữ đại tự giấy trang kim lấp lánh chào đón năm mới chưa hề phai sắc.

undefined
Đình Hà Lỗ

Những cảnh tượng ấy khiến cho lòng người không khỏi xốn xang. Nhất là với những người khách gốc thị thành.

Bấy lâu theo đuổi mảng đề tài danh nhân Thăng Long Hà Nội, nhà văn, nhà báo cao niên Lý Khắc Cung đã từng đặt chân đến hàng ngàn ngõ phố và các làng xã nội ngoại thành với một niềm đam mê chưa bao giờ vơi cạn. Bộ complett chỉnh chện, chiếc mũ phớt đội nghiêng trên đầu, nhà văn đang theo chân vị cán bộ phụ trách văn hóa xã bước nhanh trên con đường làng rộng rãi, phong quang.

Xóm Đông. Thôn Hà Lỗ.

Lối ngõ gạch hằn in dấu thời gian và mưa nắng.

Nóc mái những ngôi nhà vẫn mang dáng dấp như tự trăm năm trước. Mái ngói vẩy cá sẫm màu, tường hoa, sân gạch.

Hà Lỗ mang tên nôm là kẻ Giỗ, vốn là một ngôi làng cổ thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc xưa, một vùng đất nồi danh văn hiến trong lịch sử đất nước

Bước sang những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hà Lỗ mới chia thành ba thôn là Hà Lỗ, Hà Phong và Hà Hương, đều thuộc xã Liên Hà, huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội

Đây là nơi toạ lạc của ngôi nhà thờ tổ họ Dương ở thôn Hà Lỗ.

Không gian dưới mái nhà ngói cổ trầm mặc mầu quá vãng và thơm ngát khói hương.

Những câu chuyện của năm bẩy trăm năm trước đang lần lượt hiện về theo dòng hồi ức của các vị hậu duệ cao niên trong dòng họ.

Vị tiến sĩ khai khoa của dòng họ Dương ở Hà Lỗ chính là Dương Văn Đán, ông đỗ đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân, tức Hoàng Giáp vào năm Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông, năm 1463. Hoàng giáp Dương Văn Đán đã từng được nhà vua cử đi sứ nhà Minh và được bổ làm quan đến chức Tham chính sứ, chức quan phụ trách hành chính thứ hai tương đương như phố chủ tịch một tỉnh thành lớn giờ đây.

Cuộc gặp gỡ với nhà văn, nhà báo Lý Khắc Cung cũng chính là một địp để con cháu họ Dương hôm nay cùng nhắc nhớ lại truyền thống vẻ vang của các bậc tiền nhân trong dòng họ. Thật xúc động khi được nghe nhà văn Lý Khắc Cung đọc lại đôi câu đối cộ trên hai cây cột trước ban thờ:

- Tiến sĩ xuất thân thi lễ bách niên truyền dị diệp

Đại tông Dương tộc đăng hỏa đăng hương thiên tải diễn chi lưu

Có nghĩa là:

Xuất thân tiến sĩ, truyền thống thi lễ trăm năm truyền trên lá đẹp

Đại tông Dương tộc hương hỏa nghìn đời chảy mãi theo dòng xuôi.

Ngôi nhà thờ chi Giáp, tức chi trưởng họ Dương đặt tại xóm Chùa, thôn Hà Phong kế bên, xưa cùng thuộc đất làng Hà Lỗ. Mái ngói lô xô, cửa bức bàn cũ kỹ dáng vẻ khiêm nhường, giản dị.

Thế nhưng các bậc tiền nhân của dòng họ được phụng thờ tại nơi đây từng đã làm nên một sự nghiệp hiển hách để lại tiếng vang lưu truyền sử sách và làm rạng danh quê cha đất Tổ.

Con trai của tiến sĩ Dương Đán là Dương Bính. Ông thi đỗ đệ tam giáp, đồng tiến sĩ xuất thân vào khoa thi năm Bính Tuất, niên hiệu Hồng Đức, năm 1478, tuy khác niên hiệu song cùng thuộc triều vua Lê Thánh Tông với khoa thi của người cha mình.

Nối bước cha, và vượt hơn cha, ông được bổ làm quan đến chức Thừa chính sứ, tức là đứng đầu một Thừa tuyên thời Lê Giáp bảng.

Truyền đăng khai hậu duệ

Thu vi tiếp vũ địch tiền quang

(Đời trước khai khoa làm rạng rỡ

Cháu con nối tiếp được lưu truyền)

Còn đây là nơi phụng thờ tiến sĩ Dương Cảo, một trong những danh nhân xuất sắc trong lịch sử Thăng Long Hà Nội. Ông thuộc chi thứ của dòng họ Dương ở làng Hà Lỗ.

Những hàng câu đối cũ kỹ đã phai lạt sắc vàng son nhưng dường như vẫn lung linh tỏả rạng những đốm sáng lấp lánh từ một thời quá khứ xa xưa

Giáp bảng trùng hoa tiên tổ liệt

Thất chi trường ấm hậu giai mưu

(Giáp bảng vinh hoa tổ tiên một thời oanh liệt

Phúc ấm dài lâu, bảy chi hậu thế được cơ mưu)

Dương Cảo thi đỗ tiến sĩ, ngôi vị Hoàng Giáp, niên hiệu Vĩnh Tộ, triều vua Lê Thần Tông và được bổ làm tế tửu Quốc Tử Giám.

Sự tích đi thi và đậu bảng của ông cũng khá li kỳ, thậm chí hơi có vẻ huyền hoặc, song lại là sự thật đã được ghi trong sử sách.

Ông Dương Văn Nghiên, hậu duệ của tiến sĩ Dương Cảo vẫn nhớ như in

- Cụ tôi là cụ em đi theo hộ tống cụ anh đi thi. Chẳng may cụ anh bị cảm nặng mất đột ngột. Cụ em lúc bấy giờ sáng trí thế vào tên cụ anh để vào thi dù lúc ở nhà chưa hê thi qua cử nhân tú tài, chỉ là một người học trò bình thường gọi là sinh đồ. Vậy mà khi vào đến vòng thi hội thi đình, thì cụ em nhà tôi lại đỗ trên hết cả. Vua thấy trường hợp quá đặc biệt mới ban cho một câu: Tư nhân, tư tài, tư kỳ ngộ, có nghĩa là chưa hề gặp gỡ người tài nào đặc biệt như thế và ban cho thêm lời khen tặng truyền đời: Sinh đồ bất túc, Tiến sĩ hữu dư, có nghĩa là sinh đồ chửa học xong mà trình độ còn hơn tiến sĩ. Sau đó, cụ em nhà tôi tức là Tiến sĩ Dương Cảo được vua Lê Thần Tông giữ lại triều đình dạy học cho các hoàng tử con vua.

Với hàng chục đầu sách viết về lịch sử văn hoá, phong tục tập quán, danh nhân, đặc sản Hà Nội, nhà văn Lý Khắc Cung vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình riêng tiến tới mốc dấu kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Kiểm chứng lại những tư liệu thu thập được trước khi đặt bút viết một để tài mới, đó là thói quen bất di bất dịch của những người cầm bút chân chính xưa và nay. Xách chiếc cặp da dày cộp bước chéo qua lối ngăn giữa hai nhà bia Văn Miếu - Hà Nội, nhà văn Lý Khắc Cung đã tìm tới được dãy bia cần tìm đến.

Ba tấm bia nằm không mấy cách xa nhau trong dãy nhà bia cánh tả của Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Mỗi tấm ghi tên một bậc tiền nhân trong họ Dương ở làng Hà Lỗ đã từng đỗ đại khoa qua các kỳ thi trong thời kỳ nho học thịnh phát của đất nước. Dương Đán, Dương Bính và Dương Cảo.

Và đây là tấm bia được đánh số 32 trong 82 tấm văn bia Quốc Tử Giám. Trong đó, ghi tên vị tiến sĩ có sự nghiệp vẻ vang nhất trong dòng họ, đó chính là tiến sĩ Dương Cảo. Ông đỗ ngôi vị hoàng giáp khoa thi năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ 1628, đời vua Lê Thần Tông và được bổ làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám, tức là đứng đầu trường đại học duy nhất của đất nước được đặt chính tại địa danh này. Tên của tiến sĩ Dương Cảo người gốc làng Hà Lỗ được đặt kề cận tên tiến sĩ Giang Văn Minh, người gốc làng Đường Lâm, một vị sứ thần nồi danh trong lịch sử nước Nam)

Nhà văn Lý Khắc Cung xoa nhẹ tay lên mặt bia, đọc rõ những dòng chữ Hán khắc trên tấm bia và bảy tỏ lòng thán phục:

- Đây là tấm bia niên hiệu Vĩnh Tộ 1628 đời Lê Thần Tông. Bia này khắc tên nhiều vị tiến sĩ đỗ đại khoa kỳ thi ấy. Nhưng nổi bật nhất là tên tuổi hai vị. Một là hoàng giáp Dương Cảo người làngHà Lỗ sau trở thành quan Tế tửu Quốc Tử Giám, nghĩa như là vị hiệu trưởng trông coi việc quản lý lễ nghi của trường đại học quốc gia duy nhất của đất nước hồi ấy. Như vậy là vị thế rất quan trọng, không hề giản đơn.

Trong cuốn sách Các làng khoa bảng Thăng Long Hà Nội xuất bản năm 2004 của PGS - Tiến sĩ Bùi Xuân Đính, Viện Dân tộc học, thì sau các làng Đông Ngạc, Tả Thanh Oai, Nguyệt Áng, Phú Thị, Thượng Yên Quyết, Hạ Yên Quyết, hai làng Vân Điềm và làng Hà Lỗ thuộc huyện Đông Ngàn cũ, nay là huyện Đông Anh đều được xếp hạng ngang bằng nhau ở vị trí số 7. Và mỗi làng đều có 7 vị tiến sĩ nho học đỗ đạt qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong đó, họ Dương lại chiếm 3 trong số 7 vị tiến sĩ của làng Hà Lỗ. Ngoài ra, còn có một số vị đỗ trung khoa và tiểu khoa cũng được triều đình bổ làm quan hoặc ở nhà mở trường dạy học.

Trải hàng trăm năm đất nước lâm cảnh chiến tranh giặc giã liên miên, truyền thống khoa bảng của dòng họ Dương Hà Lố cũng đứt nối đôi lần. Nhưng tinh thần hiếu học vẫn như một mạch ngầm luôn luôn tuôn chảy trong dòng máu người họ Dương. Trong gia phả của dòng họ nay vẫn còn chép câu chuyện vượt khó, theo đuổi con đường học vấn của vị cử nhân Nho học cuối cùng là Dương Tuấn Duy. Trong vòng 5 năm, nào cha mẹ bệnh nặng rồi khuất núi, nào chú thím đỡ đầu lần lượt nằm xuống, nào con trai yểu mệnh, anh trai mắc vòng kiện tụng, gia cảnh sa sút, ông vẫn vừa lo toan việc nhà vừa tiếp tục đèn sách lều chõng đi thi theo đúng ước nguyện của cả dòng tộc cử nhân Dương Tuấn Duy, thi đỗ năm Đinh Dậu, triều vua Thành Thái nhà Nguyễn 1897. Cụ Dương Văn Quyến, hậu duệ của cử nhân Dương Tuấn Duy nay đã ngoại tuổi tám mươi trân trọng lau chỉ lên tấm bằng ghi công của chính phủ phong tặng cử nhân Dương Tuấn Duy đã có công nuôi giấu cán bộ cách mạng từ thời kỳ tiền khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945:

- Cái năm cụ tôi thi đỗ cử nhân thì cụ tôi đã vào tuổi 36. Thi đỗ xong được chính quyền bảo hộ Pháp bổ đi làm quan ngay. Nhưng cụ tôi lấy cớ gia đình khó khăn xin khước quan ở nhà mở trường dạy học. Học trò các vùng xung quanh theo học rất đông, có lúc đông nhất là gần 200 người. Rất nhiều học trò của cụ sau đó đã học thành tài thành danh.

Rời quân ngũ trở về học đại học rồi tiếp tục làm luận văn tiến sĩ, nhà giáo Dương Văn Thịnh nay đang nắm giữ cương vị chủ nhiệm khoa triết học Trường Đại học Khoa học nhân văn thuộc Đại học quốc gia Hà Nội. Sau những giờ lên lớp cho sinh viên về những vấn đề thuộc một lĩnh vực được coi là cao siêu hơn cả so với các lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội khác, vị tiến sĩ triết học họ Dương cũng không xa rời những điều vốn dĩ rất gần gũi với cuộc sống tinh thần của con người. Theo tiến sĩ Dương Văn Thịnh thì điều gì là quan trọng nhất về mặt tinh thần mà ông đem theo trong suốt cả một chặng đường dài nghiên cứu và giảng dạy?

- Tôi rất tự hào và yêu quý nghề dạy học truyền đời của gia tộc học Dương. Từ cụ tôi cho tới ông cha tôi rồi đến anh chị em chúng tôi, cả vợ tôi cũng theo nghề dạy học. Truyền thống gia đình dòng tộc nó tác động đến con người rất sâu sắc mặc dù đôi khi nó không hề hiển hiện. Nó bắt ta phải cân nhắc mỗi khi hành xử trước bất cứ vấn đề gì, nhắc nhở ta rằng làm điều gì cũng phải nghĩ là có phù hợp với truyền thống hoặc có ảnh hưởng gì đến truyền thống hay không? Và mỗi khi gặp bất cứ khó khăn ngáng trở nào, truyền thống cũng khiến ta có thêm nghị lực phấn đấu hết mức để vượt qua và tiến tới mục đích cao nhất. Tôi nghĩ là giáo dục truyền thống và có ý thức về truyền thống gia đình, dòng họ, quê hương, và cả dân tộc là rất quan trọng, nhất là trong việc hình thành nhân cách con người trong thời đại mới.

Liên Hà trong những năm đất nước và thành phố bước vào thời kỳ đổi mới và phát triển may mắn vẫn còn giữ được những dáng nét thần thương của một những ngôi làng cổ cùng những nề nếp làm ăn sinh sống thuần hậu, ấm êm trong cộng đồng cư dân cùng với truyền thống cần cù, hiếu học.

Ngôi nhà nằm ngay mặt phố chợ Liên Hà này của gia đình kỹ sư Dương Quang Trung còn đang thơm mùi vôi mới. Trong nhà đầy đủ tiện nghi phục vụ cho cuộc sống và thiết bị cho học tập, nghiên cứu. Tốt nghiệp đại học Bách khoa và trở về công tác ngay tại huyện nhà, giờ đây, ở độ tuổi xấp xỉ tam thập, tam thập nhi lập, chàng trai này cũng đang đặt kế hoạch phấn đấu nâng cao học vấn cho cho chính bản thân mình trong một tương lai gần. Lớp con cháu họ Dương trưởng thành trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI ngay ở quê hương Liên Hà đã và đang có thêm những điều kiện tốt đẹp hơn để có thể biến những ước mơ và khát vọng của cha anh và của chính bản thân mình trở thành hiện thực.

Kỹ sư Dương Quang Trung nhiệt huyết bày tỏ ý nguyện phấn đấu cho tương lai:

- Ngày xưa ông cha điều kiện kinh tế còn rất khó khăn mà đã nêu gương hiếu học rạng danh dòng họ. Nay lớp cháu con chúng tôi đã có một cuộc sống sung túc đủ đầy hơn trước rất nhiều.

Nhưng tôi vẫn quyết tâm dành dụm tiền của và thời gian để rồi sẽ tiếp tục học tập, nghiên cứu. Tôi rất thấm nhầu tinh thần: Học, học nữa, học mãi.

Cuốn sách Liên Hà, truyền thống lịch sử văn hóa và Cách mạng có một vài tấm bảng liệt kê tên tuổi các liệt sĩ đã hy sinh trong những cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở thế kỷ XX. Chỉ tính riêng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, trong tổng số 39 liệt sĩ của làng Hà Lỗ, đã có tới 26 vị là người thuộc dòng họ Dương.

Đó là những con số ngập ứ máu và nước mắt.

Và nỗi đau này không phải của riêng mỗi gia đình, dòng họ.

Nghĩa trang xã Liên Hà nằm bên cánh đồng lúa xuân đang vào thì con gái xanh non.

Cỏ dù đã thắm tươi trên những ngôi mộ cũ.

Những hạt sương đêm đọng ánh nắng ban mai long lanh, lóng lánh.

Dường như đêm đêm, nước mắt của Trời và Đất vẫn thầm rơi.

Có lẽ bởi thế, nhân gian ngàn đời vẫn hằng đón đợi những giây phút thần diệu đầu tiên của một ngày mới.

Thấm thoắt trên bốn mươi năm đã qua kể từ ngày Đại thắng huy hoàng, non sông liền một dải, xóm thôn no ấm yên vui. Những người con bất khuất của đất mẹ Liên Hà hẳn đã ngậm cười nơi chín suối.

Những ngày cuối tháng tư là những thời khắc vô cùng thiêng liêng kỷ niệm ngày giải phóng thống nhất đất nước.

Dịp lễ kỷ niệm trọng đại của đất nước cũng trùng với kỳ lễ thanh minh của người dân đất Việt.

Khắp nghĩa trang Liên Hà rạng rỡ sắc nến hoa và thơm ngát hương nhang.

Thăm viếng những người anh em họ hàng cùng huyết tộc, song người họ Dương không quên dành những những nén hương thơm trân trọng thắp lên bên trên những ngôi mộ của những liệt sĩ đồng hương trong những dòng họ xóm giềng, những dòng họ đã cùng dòng họ Dương viết nên những trang sử vàng truyền thống học hành khoa bảng, văn võ toàn tài cũng như truyền thống xây dựng và bảo vệ tổ quốc của vùng đất quê Liên Hà, Đông Anh.

Tham gia đoàn viếng nghĩa trang hôm nay có cả ông Dương Văn Quỳnh, bí thư chi bộ thôn Hà Lỗ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh. Ông xúc động bày tỏ:

- Dòng họ Dương là một dòng họ lớn ở địa phương, chiếm tới non nửa số dân thôn Hà Lỗ. Trong thời phong kiến thì dòng họ

Dương đã có nhiều vị đỗ đạt đại khoa cống hiến tài năng cho đất nước. Trong các cuộc kháng chiến cách mạng thì dòng họ Dương cũng đã có nhiều vì cán bộ lãnh đạo các cấp dẫn dắt các phong trào. Và cũng có nhiều sĩ quan chiến sĩ lên đường ra mặt trận rồi hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, phát huy truyền thống, bà con của dòng họ Dương cũng đã cùng với các dòng họ khác của địa phương chung tay xây dựng sự nghiệp kinh tế văn hóa phát triển. Hà Lỗ chúng tôi đã nhiều năm liền đạt danh hiệu Làng văn hóa cấp thành phố.

Thấm thoắt lại đã sắp đến ngày hội thi chim hòa bình truyền thống của làng quê Hà Lỗ. Những người con của dòng họ Dương lại tế tựu bên nhà thờ họ, trước là để lễ Tổ, sau là để cùng cụ trưởng họ chăm chút, sắp sửa cho đoàn chim dự tuyển.

Nắm thóc vung lên mái nhà, đàn chim vù vù đập cánh sà xuống thi nhau nhặt. Cảnh tượng thật ấm áp, an bình Thú chơi chim hào hoa của dòng họ Dương đã có từ bao giờ chẳng rõ. Thời nào cũng có những người rất đam mê và cũng đã từng giành được những giải cao trong các dịp hội làng, hội xứ Đông Ngàn xưa và thủ độ Hà Nội hôm nay.

Những đàn chim vỗ cánh bay vút lên bầu trời xanh thằm mang theo niềm khát vọng muôn đời không chỉ của những thế hệ người họ Dương Hà Lỗ mà là của tất thảy loài người trên thế gian.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Thợ vàng Hàng Bạc

Thợ vàng Hàng Bạc

“Thợ vàng Hàng Bạc” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, xin được gửi đến quý vị cùng theo dõi và lắng nghe.

Bài viết:

Bây giờ khách tới tham quan phố Hàng Bạc chủ yếu thấy các cửa hàng buôn bán vàng bạc và các trụ sở công ty du lịch nhỏ. Nhưng vài ba mươi năm trở về trước, phố chủ yếu là những cửa hàng cửa hiệu kiêm xưởng thợ kim hoàn nhỏ.

Nghề kim hoàn Việt Nam được phân ra ba chuyên ngành truyền thống theo ba dạng thức chế biến sản phẩm. Đó là hàng trơn, hàng chạm và hàng đậu. Ở phố Hàng Bạc, người gốc Châu Khê Hải Dương chuyên làm hàng trơn. Người gốc Đồng Xâm, Thái Bình chuyên làm hàng chạm. Còn người gốc Định Công, Hà Nội chuyên làm hàng đậu.

Những người thợ gốc Châu Khê

So với những cửa hiệu kim hoàn trên phố Hàng Bạc, thì hiệu vàng Kim Thịnh ở số nhà số 43 thật quá đỗi bé nhỏ, sơ sài. Bởi vì nhà ông bà Dậu, chủ cửa hiệu, không kinh doanh mà chỉ gia công, sửa chữa đồ trang sức vàng bạc. Kinh doanh buôn bán thì thuế cao, vợ chồng già không đương nổi, đành cọc cạch hàng ngày kiếm đủ tiền chi dùng cho gia đình. Thế cũng đã là khá. Nhưng ngẫm lại, cũng có lúc chạnh buồn. Bởi vì ông Dậu chính là người thợ kim hoàn cao tuổi nhất trên phố Hàng Bạc còn đang theo đuổi nghề gia truyền. Ấy là cái nghiệp mà cả hai vợ chồng ông bà, cũng như hàng trăm gia đình dân phố Hàng Bạc, gốc làng Châu Khê, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương theo đuổi từ khi còn nhỏ. Ở tuổi ngót nghét bẩy mươi, với hơn nửa thế kỷ làm nghề, đã có biết bao nhiêu chiếc vòng xuyến, hoa hột từng qua đôi bàn tay ông mà thành hình. Thế mà vào cái thời bao cấp khó khăn, ngặt nghèo, đã có năm ông bà Dậu phải chuyển nghề làm ăn, mới đủ sinh sống. Bộ đồ nghề gia truyền, ông phải dấu diếm mãi mới còn giữ lại được, chứ hễ lộ ra ngày ấy, thì bị bắt phạt khốn khổ chứ chả chơi. Từ năm 1990, trong cơ chế kinh tế mở cửa, ông bà mới nhúc nhắc mở lại cửa hiệu con con này. Nhưng bây giờ, tóc ông thợ đã bạc trắng, đôi mắt đã kém phần tinh tường. Nhìn dáng ông còng còng ngồi bên ngọn lửa đèn nghề xanh lét, bà thương lắm.

Kém ông Dậu chừng mươi tuổi, ở nhà số 10 đầu phố Hàng Bạc, dưới tên biển hiệu Tân Dung, ông Tân cũng đã có ngót nửa thế kỷ theo nghề. Ông cùng là người họ Phạm và cùng là đồng hương Châu Khê với ông Dậu. Dòng họ Phạm là một dòng họ lớn ở Châu Khê. Các bậc tiền nhân của dòng họ xa xưa đã từng lên kinh đô làm nghề đúc bạc cho ngân khố quốc gia, tương truyền từ thời Lý.

Đến thời Lê, phố Hàng Bạc đã được nhắc đến là một trong 36 phố phường sầm uất nhất của kinh thành Thăng Long - Đông Kinh, với trung tâm là kho đúc bạc của nhà vua ở di tích đình Hàng Bạc hiện thời, tại số nhà 42, cùng hàng loạt các cửa hiệu đổi bạc kế bên, tiền thân của những hiệu kim hoàn sau này.

Bao đời nay, thế giới của những người thợ vàng dường như vẫn chỉ gói gọn trong một ô đất nhỏ chưa đầy một thước vuông. Chiếc bàn gỗ cóc gặm, những thứ đồ lề cũ kỹ, lắm cái đã mòn vẹt, nhuốm màu thời gian. Sản phẩm làm ra từ đôi bàn tay họ cũng bé nhỏ, nhẹ cân nhưng thật đắt giá, có khi là cả khối tài sản chắt chiu một đời người hay có thể là một kỷ vật lưu niệm vô giá.

Để theo đuổi được một cái nghề suốt đời sống bên vàng ròng, bạc chảy, bài học khai tâm từ thuở chập chững vào nghề đến khi tóc ngả màu sương, ông Tân vẫn khắc ghi trong tâm khảm. Ấy chính là bài học chỉ một chữ, chữ Tín. Có một đồng nghiệp trẻ của chúng tôi đã viết rất kỹ về một người thợ kim hoàn đặc biệt của phố Hàng Bạc trên báo VNExpress:

"Từ nhiều năm qua, tọa tại số 83 Hàng Bạc là căn nhà nhỏ sâu hun hút, giữa các cửa hàng khác với biển hiệu sáng trưng và sầm uất. Hầu như những vị khách lần đầu ghé chân đều thấy ngạc nhiên, bởi nó như chứa đựng một Hà Nội xưa cũ. Đó là cửa hàng chế tác trang sức truyền thống của gia đình ông Nguyễn Chí Thành, 71 tuổi.

undefined

Ông Nguyễn Chí Thành bên bàn làm việc của mình. Ảnh: Ngân Dương.

Tiếng búa lục đục, tiếng mài kim loại ken két lẫn với tiếng nhạc xưa là những thanh âm quen thuộc ngày ngày phát ra tại cửa hàng của ông Thành. Đôi mắt chăm chú nhìn vào miếng vàng trắng nguyên bản, môi mím chặt, ông dùng thanh kim loại dài tỉ mần khắc từng chi tiết.

Trước mặt người thợ thủ công ấy treo một bóng đèn tròn, bên ngoài là nửa vỏ lon bia ông tự chế thành chụp đèn. Những vỏ lon bia là hộp đựng, cái bát sứt để chứa những đồ vụn vặt... Hầu hết đồ dùng được truyền từ đời này sang đời kia, các vật dụng hoen rỉ đã nhuốm màu thời gian. Chiếc bàn làm việc của ông chẳng khác gì một tác phẩm nghệ thuật sắp đặt".

Hồng Châu vang bóng một thời

Bà Phạm Thị Lộc ở nhà 34 phố Hàng Bạc giờ đây có thể được coi là người phụ nữ cao tuổi nhất còn giữ nghề, nhưng ở một vị thế khác. Học nghề gia truyền từ năm 13 tuổi, với thâm niên trên 60 năm làm hàng, hiện nay, bà vẫn đương nhiệm chức chủ tịch hội mỹ nghệ kim hoàn Việt Nam. Bà đã có gần 40 năm làm nhân viên rồi làm chủ nhiệm hợp tác xã mỹ nghệ kim hoàn Hồng Châu, thuộc quận Hoàn Kiếm. Vào những năm sáu mươi của thế kỷ trước, nhà nước tiến hành quản lý chặt chẽ việc kinh doanh, chế tác vàng bạc đá quý và đưa thợ thủ công mỹ nghệ vào cơ chế sản xuất tập thể.

Thế là hơn một trăm người thợ kim hoàn giỏi nghề ở Hà Nội, chủ yếu là thợ Hàng Bạc đã được trưng tập vào hợp tác xã Hồng Châu, số khác vào công ty mỹ nghệ kim hoàn Hà Nội.

Trải hơn ba mươi năm trời, lớp thợ đầu đàn hầu hết đã ở vào tuổi xưa nay hiếm. Người thì đã khuất núi, người thì về quê dưỡng lão, người trở lại phố cũ mở cửa hàng riêng. Đến nay, thực sự chỉ còn hơn hai mươi xã viên còn gắn kết với Hồng Châu (thời điểm năm trước sau năm 2000). Có thể cả vì hai lẽ. Trước nhất vì tình yêu nghề tha thiết, sau cũng là vì kế sinh nhai hàng ngày. Thợ kim hoàn tự xưa, nếu không thật giàu có, cũng chẳng thể nghèo nàn thiếu thốn.

Trong gian nhà xưởng đơn sơ, xập xệ ở giữa phố Hàng Bồ kế bên phố Hàng Bạc, những gương mặt khắc khổ vẫn chăm chú, kiên nhẫn, lặng lẽ cúi sát bên những khuôn bàn cũ kỹ. Người dũa, người mài, người cưa, người chuốt... Tất thảy họ như đang bình thản bỏ ngoài tai bao nhiêu âm thanh sôi động của phố phường Hà Nội những tháng ngày đã sang thế kỷ mới. Và dưới những đôi tay thợ Hồng Châu, bao vẻ đẹp của bạc vàng, châu báu trên đời vẫn đang hé lộ, long lanh, chói sáng.

Đã bao năm, sản phẩm của người thợ Hồng Châu từng nức tiếng trong và ngoài nước, nhất là trên thị trường Đông Âu. Giờ đây, dù trong thời buổi cạnh tranh quyết liệt, người thợ Hồng Châu vẫn luôn đặt hai chữ danh dự và uy tín lên hàng đầu. Những khách hàng kỹ kén ở Hà Nội vẫn tìm đến với Hồng Châu, chính là vì nhẽ ấy.

Bây giờ, ở hợp tác xã Hồng Châu, nghệ nhân lão làng Phạm Thị Lộc và lớp thợ nghề cao tuổi lại đang đặt hy vọng vào người thợ trẻ nhất. Anh Nguyễn Anh Tuấn mê nghề kim hoàn của gia đình từ thuở còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông. Mười tám tuổi chính thức vào nghề ở hợp tác xã, giờ đây, anh đã có thâm niên hơn chục tuổi nghề. Theo lớp cha anh đi trước, anh đã gắn bó với Hồng Châu trong thời kỳ gian khó nhất mà không hề nhụt chí. Tâm nguyện của anh Tuấn cũng như tâm nguyện của những người thợ kim hoàn Hàng Bạc hôm nay, giản đơn nhưng thiết thực, gần gũi với cuộc sống đời thường. Anh ước mong được học thêm những kỹ thuật chế tác vàng bạc của thợ kim hoàn nước ngoài, và mong mỏi ngành kim hoàn Hà Nội sớm đầu tư một dây chuyền sản xuất đồ mỹ nghệ kim hoàn hiện đại, hợp thị hiếu và sở thích của khách hàng trong và ngoài nước.

Dầu cũ nghề xưa còn mất?

Nghề kim hoàn Việt Nam được phân ra ba chuyên ngành truyền thống theo ba dạng thức chế biến sản phẩm. Đó là hàng trơn, hàng chạm và hàng đậu. Ở phố Hàng Bạc, người gốc Châu Khê Hải Dương chuyên làm hàng trơn. Người gốc Đồng Xâm, Thái Bình chuyên làm hàng chạm. Còn người gốc Định Công, Hà Nội chuyên làm hàng đậu.

Làm hàng trơn đơn giản nhất, như thể đánh nhẫn, đánh khuyên tai hay vòng tay, vòng cổ... theo lối cũ.

Làm hàng chạm là đặt lá vàng lá bạc hay vật dụng cốc chén bình lọ lên một khối xi dẻo rồi áp mẫu hoa văn vào mà chạm theo các đường nét. Sau đó, gỡ tấm vàng bạc hoặc các vật dụng kể trên khỏi khối xi dẻo đem đi đánh bóng, hoàn thiện.

Làm hàng đậu tức có nghĩa là người thợ chuốt hoặc kéo cho vàng bạc thành những sợi dài nhỏ như sợi tóc, rồi dùng các dụng cụ chuyên dụng để uốn các sợi vàng bạc ấy theo các hình hoa lá, chim muông sống động. Rất kỳ công.

Thời trước, ở phố Hàng Bạc và ở hợp tác xã Hồng Châu, ngoài thợ gốc Châu Khê chiếm số đông, còn một số thợ gốc Đồng Xâm và Định Công. Những năm cuối thập niên chín mươi của thế kỷ trước, cả phố Hàng Bạc chỉ còn đôi ba gia đình người góc Đồng Sảm ở dây bên số chẵn sinh sống, song cũng không còn làm nghề nữa

Cửa hàng kim hoàn Thu Hồng ở số nhà 149 Hàng Bạc bây giờ do cô con dâu ông thợ Định Công Nguyễn Hữu Chỉnh, một người thợ lão làng trong nghề đậu trông nom. Như nhiều người thợ ở tuổi mắt mờ, chân chậm, cụ Chỉnh đã thôi nghề, về quê nghỉ dưỡng lão từ lâu.

Bây giờ, cả làng Định Công cũng chỉ còn dăm bẩy hộ gia đình còn gọ gằng theo nghề Tổ. Chủ yếu là mấy gia đình anh em người họ Quách với hai nghệ nhân nổi danh là Quách Văn Trường và Quách Văn Hiểu. Hàng hóa được gửi bán trên phố Hàng Bạc và trên các cửa hàng thủ công mỹ nghệ rải rác trên các phố trung tâm.

Việc sản xuất nghe cầm chừng, kém sôi động, khác với thời dân làng nô nức làm hàng gia công xuất khẩu theo đơn đặt hàng của công ty mỹ nghệ xuất khẩu trung ương.

Nhìn những cánh bướm, bông hoa, vòng tay, kiềng cổ, vô cùng tinh xảo, mỹ lệ của người thợ Định Công, ai đó cứ thắc mắc hoài không hiểu tại sao mà hàng hóá lại có thể chậm lưu thông đến vậy? Hay là tại đầu ra chưa được khơi thông rộng rãi. Mà chuyện đó, đôi khi nằm ngoài tầm tay của những người thợ.

Dầu không còn coi đây là một nghề kiếm sống chủ yếu, song những người thợ khéo Định Công vẫn tận tâm lựu giữ nghề truyền thống độc đáo của cha ông. Phương ngôn cổ Hà Nội từng có câu: Thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã. Và họ vẫn mong ước, đến một ngày nào đó, nhờ phương thức xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ được đổi mới, sản phẩm của làng nghề sẽ lại cất cánh vươn xa.

Phố Hàng Bạc trong thời kinh tế mở cửa và hội nhập đã thực sự hồi sinh và phát triển, song chủ yếu chỉ là trên phương diện kinh doanh, buôn bán, trao đổi. Nhà cửa chật chội, tiền công lao động thấp, việc sản xuất, chế tác đương nhiên bị thu hẹp. Tuy nhiên, người trên phố vẫn sử dụng nguồn hàng hóa sản xuất từ các làng nghề truyền thống quê hương. Bên cạnh đó là vô vàn những mặt hàng từ miền Nam chuyển ra hay từ nước ngoài nhập về. Khách nước ngoài tìm đến mua đồ trang sức và lưu niệm trên phố ngày nào cũng hàng trăm người có lẻ.

Cũng ở tuổi thất thập, ông Nguyễn Danh Tú, chủ hiệu kim hoàn Phúc Thành, một cửa hiệu kinh doanh vào loại lớn trên phố Hàng Bạc, nay đã có thể yên tâm nghỉ ngơi. Ngọn lửa đèn nghề trao lại cho hai đứa con một trai, một gái. Nhưng việc kinh doanh bây giờ dễ hơn xưa mà cũng có phần khó hơn xưa. Ngoài việc nắm được những ngón nghề gia truyền, người thợ kim hoàn thời nay lại không thể không học hỏi thêm các mẫu mã sản phẩm hiện đại của nước ngoài và ngay của những người thợ trong Nam. Duy chỉ có bí quyết giữ chữ Tín trong làm ăn, kinh doanh là thời nào cũng vẫn phải đặt lên hàng đầu.

Phố Hàng Bạc sang thế kỷ XXI đã có nhiều đổi khác. Hàng chục trụ sở công ty du lịch lữ hành đan xen bên những cửa hàng bán đồ lưu niệm cho khách du lịch và những cửa hàng vàng bạc nay đã được sửa sang cho sáng sủa rực rỡ hơn.

Rời dãy phố Hàng Bạc, có lẽ ai đó sẽ lưu lại trong tâm trí một hình ảnh rất đặc biệt. Trong cửa hiệu kim hoàn nào cũng có một tấm gương thật lớn. Trước mặt người thợ kim hoàn nào cũng có một ngọn đèn thật sáng. Và ngọn lửa nghề nhỏ bé vẫn luôn luôn rực cháy khôn nguôi.

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Đào nương ca trù Bạch Vân

Đào nương ca trù Bạch Vân

“Đào nương ca trù Bạch Vân” - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Nàng mở chiếc gương soi dặm lại chút phấn hồng trên đôi má không còn nét bầu bĩnh thơ ngây thuở ban đầu song hãy còn lưu lại đôi nét xuân sắc một thời. Ngắt thêm nhành hoa ngâu bên sân chùa gài lên vành khăn tròn trịa, nàng vẫn không giấu được vẻ hồi hộp trước giờ phút lên chiếu ca trù biểu diễn. Trong nỗi hân hoan chia sẻ cùng các đồng nghiệp diễn viên trẻ tuổi của nghệ thuật quan họ, hình như có thoáng một chút âu lo trên gương mặt nghệ sĩ ca trừ. Liệu bà con sẽ đón đợi tiếng hát ca trù của mình ra sao đây?

Trung tuần tháng Chín âm lịch, chùa Phúc Lâm bên kia sông Đuống vào đám giỗ Tổ. Mới sáng sớm, cảnh chùa đã tấp nập, rộn rã. Khách gần khách xa ai ai vừa đến cổng chùa đều đã được bà con dân thôn đón tiếp ân cần, nồng nhiệt. Lẫn trong số đông, những người khách này cũng không có gì khác biệt nếu như họ không mang theo những thứ hành trang lỉnh kỉnh này. Thật là đủ đầy đàn ca sáo nhị nhé.

Ô thì làng vào đám mà, trai thanh gái lịch đàn ca hát xướng càng đồng thì càng vui chứ sao. Nhưng khi lũ trống đàn khăn áo đang còn nguyên trong bao gói, chúng vẫn chỉ như những đám hành lý cồng kềnh, lỉnh kỉnh mang nặng trên vai người.

Kể thì ở chốn thôn quê khuất nẻo này, khó có ai đã dễ nhận ra ngay gương mặt và tên tuổi của chị, kể cả là khi chị đã bắt đầu thay đổi phục trang chờ đến giờ biểu diễn. Chiếc khăn vấn nhung như đã có đôi nốt bạc tuyết. Tấm áo lụa tơ tằm như cũng đã chớm phai màu.

Gương giếng chùa có lẽ cũng chẳng có thể làm trẻ hơn gương mặt của người đàn bà đã từ lâu qua ngưỡng tuổi tứ tuần. Song ánh lên trong đôi mắt ấy vẫn là một niềm khao khát đam mê dấu in từ một thời con gái xa xôi.

Bạch Vân đã ngã vào tình yêu ca trù từ bao giờ nhỉ?

Sinh ra trên vùng đất Nghệ An, cô gái trẻ Lê Thị Bạch Vân sớm có năng khiếu ca hát nên đã trở thành học sinh Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật tỉnh. Duyên may trong kỳ tuyển sinh của trường âm nhạc Việt Nam, nghệ sĩ nhân dân Quang Thọ đã chấm tuyển Bạch Vân cùng một người bạn học ra Hà Nội theo học thanh nhạc tại trường âm nhạc Việt Nam. Sang đến năm 1977, cô gái trẻ ham học lại đăng ký nhập học trường Đại học Văn hóa Hà Nội tại Khoa Văn hóa quần chúng, chuyên Ban Âm nhạc và tốt nghiệp ra trường vào năm 1981.

undefined
Đào nương Bạch Vân và Nghệ nhân Vũ Văn Hồng biểu diễn tại CLB Ca trù Hà Nội. Ảnh: NVCC

Ngược dòng thời gian, cơ duyên mà Bạch Vân theo đuổi bộ môn ca trù lại là do người anh trai dạy cho từ thuở ấu thơ những khổ thơ mưỡu nói, hát nói đầu tiên với những ngôn từ trác tuyệt do Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Tản Đà, sáng tác. Thế rồi thêm một cơ duyên tốt đẹp cho Bạch Vân là cô đã gặp được cụ Nguyễn Văn Trai, nguyên phó lý làng Láng Thượng xưa. Cụ đã tâm sự với Bạch Vân về nỗi buồn khi ca trù đang trên đường bị mai một khó có người tiếp nối. Cụ đã đưa cho Bạch Vân một cuốn sách ca trù cổ với nguyện vọng Bạch Vân sẽ tiếp tục tìm hiểu và khôi phục lại những nét đẹp hào hoa của Hà Nội một thời xa. Tuy nhiên, cũng phải qua một thời gian chật vật lăn lộn, đến năm 1991, ý nguyện thành lập Cầu lạc bộ Ca trù Hà Nội của Bạch Vân mới được thành hình. Ban đầu còn rất đơn sơ, chuệch choạc, sau mới định hình nền nếp sinh hoạt hằng tuần. Sau kỳ ra mắt tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội còn phải luân phiên chuyển sinh hoạt từ các di tích như đền Thủ Lệ, đền Quan Nhân... trước khi định hình bến đỗ một thời gian dài tại Bích Câu Đạo quán trên phố Cát Linh.

Dưới mái di tích Bích Câu đạo quán hằng ghi dấu câu chuyện tình diễm lệ của một thời, có lẽ khó ai có thể ngờ tiếng đàn đáy đang ngân nga những âm điệu thánh thót, dịu dàng ấy lại là từ đôi tay của một người đàn ông ngoại quốc, anh Barley Notton, đến từ xứ Anh quốc xa xôi. Barley Notton sang Việt Nam khoảng cuối năm 1992, do được GS - TS Nguyễn Thuyết Phong ở Mỹ giới thiệu tìm hiểu ca trù Việt Nam. Anh đã gặp nghệ sĩ Bạch Vân và nghệ nhân đàn đáy Chu Văn Du để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ về ca trừ. Nền nghệ thuật truyền thống dân tộc Việt Nam hút hồn chàng trai ngoại quốc với những khúc đàn hát thơ mộng, thậm chí có thể gọi là mê hoặc nữa:

- Việt Nam là một xử sở kỳ diệu. Phong cảnh đẹp tươi. Con người thân thiện và âm nhạc truyền thống thì quyến rũ hồn người đi từ hết cung bậc này sang cung bậc khác. Ca trù nghe nói rất bác học nhưng tôi thấy cũng cũng hết sức gần gụi và dễ tiếp cận qua giọng hát và phong cách biểu diễn của Bạch Vân.

Từ nhiều năm rồi, có lẽ trong giới người đam mê nghệ thuật truyền thống của Hà Nội không ai là không biết đến nữ nghệ sĩ Bạch Vân chủ nhiệm câu lạc bộ ca trù Hà Nội đặt tại ngôi đền hay còn gọi là Bích Câu đạo quán trên phố Cát Linh. Cứ vào mỗi ngày chủ nhật cuối tháng dương lịch, Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội lại đều đặn nhóm họp. Khách gần khách xa lại lục tục kéo đến. Với họ, sức hấp dẫn và thu hút của Câu lạc bộ không gì khác là niềm đam mê một môn nghệ thuật truyền thống độc đáo của dân tộc, nghệ thuật ca trù hay còn gọi là lối hát cửa đình, hát ả đào, hát nhà trò của một thời.

Nhà riêng của nhà thơ, nhà báo lão làng Chu Hà ở phố Hàng Bột xưa nay là phố Tôn Đức Thắng rất gần ngôi đền Bích Câu, trụ sở của Cầu lạc bộ Ca trù Hà Nội. Vốn cũng là một người nặng lòng trăn trở với nghệ thuật ca trù truyền thống, cụ là người ban đầu đã không mấy tin tưởng và ủng hộ nghệ sĩ trẻ Bạch Vân trong công việc gây dựng lại câu lạc bộ ca trù Hà Nội những ngày đầu trứng nước. Nhưng thực tế đã chứng tỏ thực lực và tâm huyết của Bạch Vân đã đem lại kết quả rất đáng ghi nhận. Năm ấy, ở độ tuổi xấp xỉ cửu tuần, sức lực tuy đã mỏi mòn, đôi tai chừng như đã lễnh lãng đôi phần, song trí nhớ của bậc trưởng thượng Chu Hà vẫn còn đáng nể lắm:

- Bạch Vân rất ham học hỏi. Ca trù có nhiều khúc mưỡu và hát nói được các nhà nho tài ba soạn bằng những câu thơ cổ còn nguyên âm chữ Hán, có thể rất khó hiểu và khó thuộc. Nhưng cô ấy hát không khi nào bị sai từ ngữ hoặc lệch vần điệu. Lớp trẻ học theo cô ấy cũng không dễ đâu.

Và cũng khó ai có thể ngờ được, cứ đều đặn mỗi tháng, từ đất Thanh Hoa xa xôi, có một người đàn ông tuổi đã ngoại bẩy mươi lại khăn gói trống đàn ra Hà Nội để đến với câu lạc bộ ca trù Hà Nội. Đã trên nửa thế kỷ đứt quãng với nghiệp cầm ca, nay ông như được hồi sinh trở lại trong nhịp phách tiếng đàn đầy da diết nhớ thương.

Được kết nạp vào một câu lạc bộ nghệ thuật của người Hà Nội, thật là vinh dự lắm thay. Nghệ nhân đàn đáy ưu tú Ngô Trọng Bình nay đang ở tuổi ngoại chín mươi rất tâm đắc với giọng ca trù Bạch Vân:

- Tôi đàn cho cô Vân hát điệu Thét nhạc hay ca bản Tỳ Bà Hành rất là ăn ý. Khán giả hưởng ứng nhiệt liệt. Tôi cũng như trẻ lại với những cung đàn điệu nhạc ca trù cổ truyền mà không mấy người có thể chia sẻ được niềm đam mê như cô Vân.

Trong cuộc đời con người đều có những dấu ấn năm tháng khó có thể mờ phai. Với Bạch Vân, mấy năm trong thời đoạn chuyển giao thế kỷ là những năm tháng đáng nhớ nhất. Năm 1999, Bạch Vân viết đề án & phối hợp giữa CLB Ca trù HN với Ban Tuyên giáo Thành uỷ, Sở Văn hóa thông tin tổ chức "Hội thảo ca trù Thăng Long Hà Nội lần thứ nhất". Năm 2000, Bạch Vân lại thành công với đề án "Liên hoan ca trù HN mở rộng lần thứ nhất", cũng với sự đồng ý và phối hợp của các cơ quan Thành ủy và Sở chủ quản Văn hóa thông tin. Hoạt động hội thảo và liên hoan ca trù với sự tham gia đại diện 13 tỉnh thành có giáo phường đầu tiên đã thành công vang dội. Từ đó, Quỹ Ford đã đề nghị giúp đỡ Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca trù qua các hoạt động như mở Liên hoan, hội thảo ca trù toàn quốc, đào tạo lớp diễn viên trẻ ca trù cấp tốc. Không ai khác, Bạch Vân lại được Bộ Văn hóa thông tin mời tư vấn giúp tổ chức và soạn giáo án giảng dạy cho lớp học. Với 78 học viên được học cấp tốc hai tháng, lớp học đã tạo tiền để nòng cốt cho các địa phương muốn khôi phục nghệ thuật ca trù ở 13 tỉnh thành phía Bắc.

Đầu năm 2003, Bach Vân được thay mặt nghệ thuật ca trù Việt Nam dự giao lưu biểu diễn tại Diễn đàn xã hội thế giới tổ chức tại Ấn Độ. Giữa năm 2004, Trung tâm từ điển thế giới Oxpord và Cambeger đã bình chọn Bạch Vân là một trong 2000 nhà thức giả xuất sắc thế kỉ XXI. Cũng năm đó Bạch Vân đã cung cấp tư liệu quan trọng về nghệ nhân, giáo phường địa phương của 17 tỉnh thành cho nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan - Viện phó Viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam theo lời đề nghị, để trình Bộ Văn hóa thông tin kiến nghị UNESCO công nhận Hát ca trù là di sản Văn hóa phi vật thể thế giới.

Đam mê với ánh đèn sân khấu nhưng Bạch Vân cũng có một niềm đam mê không kém với công việc học tập và nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn nghệ thuật. Năm 2004, nàng đã hoàn thành luận văn thạc sĩ nghệ thuật với đề tài "Đào nương và nghệ thuật hát trong ca trừ". Và đến năm 2020, công trình đó khi được in thành sách đã được hội nhạc sĩ Việt Nam tặng thưởng giải B (không có giải A). Đó là một niềm vinh dự mới mẻ của người nghệ sĩ đã dành cả nửa thế kỷ cho tình yêu ca trù.

Vào năm 2012, với những cống hiến nỗ lực cho việc trình diễn, bảo tồn và phát huy nghệ thuật ca trù dân tộc, Bạch Vân đã vinh được được nhà nước phong tặng danh hiêu cao quý Nghệ sĩ ưu tú.

Nhưng giá thử mà không có người từng lao tâm khổ tứ chắp nhặt, chi chút từng manh chiếu, bộ trà, gây dựng nên Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội thì sao có được ngày hôm nay, vang danh bốn bể. Nữ nghệ sĩ Bạch Vân từng được mời đi biểu diễn ở rất nhiều nơi trong và ngoài nước, được nhận kha khá những huy chương vàng bạc và giải thưởng cao thấp. Đặc biệt là nàng hay được mời biểu diễn minh hoa cho những cuộc hội thảo về khôi phục nghệ thuật ca trù truyền thống ở Hà Nội và cả nước.

Vang danh bốn bể, nhưng ấy là vang danh câu lạc bộ với cái tôn chỉ mục đích mang hàm chứa đủ đầy tính chân thiện mỹ của nó. Còn Bạch Vân, với sức lực và tài năng hữu hạn, dẫu có gắng gỏi đến mấy, cũng khó có thể vượt lên và nổi trội. Nhưng sự đời, một niềm đam mê đích thực, vốn là tự thân của nó, rất hồn nhiên và trong sáng, đâu chỉ vì một mục đích thực tế cụ thể nào. Dẫu rằng mục đích ấy có thể cũng rất tốt đẹp đi chăng nữa. Và mặc dù nếu có đến được với mục đích ấy, chặng đường đi cũng thật lắm đỗi gian nan gập ghềnh. Mà không thể không nói rằng, điều kiện cần và đủ để tạo sức sống cho một niềm đam mê, ấy chính là cái khoảng cách vô hình đôi khi rất trớ trêu như thế.

Vào một ngày xấu trời nào đó, cái địa điểm linh thiêng mà Bạch Vân chi chút chăm lo từ việc trải chiếu quét nhà cho đến hương hoa trầu rượu tại Bích Câu đạo quán đã bị một thế lực mạnh hơn chiếm cứ. Cả thầy lẫn tớ Bạch Vân lại lơ ngơ phiêu bạt mất một thời gian cho đến khi duyên may lại được nương nhờ dưới bóng Thánh tổ nghề kim hoàn tại đình Kim Ngân phố Hàng Bạc.

Những hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống trong khu phố cổ Hà Nội kể từ dịp kỷ niệm 1000 năm khởi dựng kinh thành Thăng Long Hà Nội, trong đó có câu lạc bộ ca trù của Bạch Vân cũng đã góp phần tạo nên một diện mạo mới mẻ đầy sức sống thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Bạch Vân như nạp được thêm một nguồn năng lượng mới để say sưa cống hiến và đào luyện những hạt nhân ca trù trẻ tuổi. Nghệ nhân đàn đáy Nguyễn Bá Hanh (tức Hải) với những ngón đàn điêu luyện ngọt ngào, tình tứ chính là người đã trưởng thành từ những đêm hát ca trù của câu lạc bộ ca trù Hà Nội dưới sự kèm cặp dẫn dắt chí tình từ nghệ sĩ Bạch Vân.

Cho đến nay, đào nương Lê Ngọc Hân, thành viên của cầu lạc bộ ca trù Hà Nội, cô gái trẻ từng theo Bạch Vân từ cái thời Hồng Hồng Tuyết Tuyết mới ngày nào chưa biết cái chi chi... cũng đã thành thục lời ca nhịp phách và được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú vào năm 2014. Đó cũng được coi như một phần thưởng cho cuộc đời nghệ sĩ của Bạch Vân.

Bạch Vân tuổi Đinh Dậu. Cho dù không mê tín thì người đời cũng biết là gái Đinh Dậu chả mấy ai được ung dung nhàn nhã. Từ chuyện sự nghiệp đến chuyện đời tư Bạch Vân cũng đều long vất vả. Kiếp sống của người nghệ sĩ dân gian, như các cụ ta vẫn nói, tiếng cả mà nhà không.

Gọi là nhà không thì không hẳn đã đúng, vì căn nhà của nghệ sĩ Bạch Vân lúc nào cũng ăm ắp tiếng đàn ca. Nhưng mà, ngẫm như một câu Kiều thì:

Rằng hay thì thật là hay

Nghe ra ngậm đẳng nuốt cay thế nào

Có người nghe chuyện trách rằng: Quả là người cũng như tên, chuyện dưới đất không lo, cứ lơ lửng trên trời, đã là mây, lại còn là mây trắng. Sao mà thanh khiết mà bay bổng đến thế. Rồi biết đến bao giờ mà mặt đất gặp được chân mây?

Nhưng quái lạ, trở đi trở lại, cái nghiệp cầm ca dù đắng cay đến mấy, cũng vẫn dễ khiến người ta rút ruột rút gan cả một đời cho nó mà chẳng thể tính toán thiệt hơn. Quả thực vậy, nếu so đo tính toán thiệt hơn thì sao còn có thể gọi là nỗi đam mê.

Chặng đường trở lại đầu tiên của nghệ thuật ca trù truyền thống trên đất Hà Nội dẫu mấy khó khăn trắc trở song cũng đã lui lại đằng sau. Những người đam mê tâm huyết với nghệ thuật ca trù ở Hà Nội đã ngày một đông đảo thêm, trong đó là không ít những mầm non nghệ thuật đang hé nở. Dẫu rằng chặng đường đến với những đỉnh cao của nghệ thuật ca trù còn rất đỗi truân chiên.

Nhưng hỏi rằng liệu Bạch Vân đã có một lần nào nản chí?

- Không bao giờ. Bạch Vân còn sống là còn ca hát và còn gõ phách. Đơn giản chỉ có thế thôi?

Đám hội làng quê bên sông Đuống đang vào canh quan họ nao nức, rộn ràng. Tình tứ và thắm thiết. Nữ nghệ sĩ Bạch Vân đang chờ đến tiết mục biểu diễn của mình. Nàng mở chiếc gương soi dặm lại chút phấn hồng trên đôi má không còn nét bầu bĩnh thơ ngây thuở ban đầu song hãy còn lưu lại đôi nét xuân sắc một thời. Ngắt thêm nhành hoa ngâu bên sân chùa gài lên vành khăn tròn trịa, nàng vẫn không giấu được vẻ hồi hộp trước giờ phút lên chiếu ca trù biểu diễn.

Trong nỗi hân hoan chia sẻ cùng các đồng nghiệp diễn viên trẻ tuổi của nghệ thuật quan họ, hình như có thoáng một chút âu lo trên gương mặt nghệ sĩ ca trù. Liệu bà con sẽ đón đợi tiếng hát ca trù của mình ra sao đây?

Bởi tự xưa, ca trù vốn vẫn là một nghệ thuật mang tính bác học khá cao, nó không dễ thích hợp với số đông khán thính giả, nhất là các khán thính giả của Hà Nội thế kỷ XXI, một Hà Nội đang trên con đường phát triển hội nhập mạnh mẽ với đất nước và cả thế giới. Song có lẽ chính vì thế mà nỗi khát khao bảo tồn và duy trì nó càng thêm cháy bỏng, nồng nàn. Dẫu rằng vẫn khắc khoải trong đáy tim một câu Kiều mông lung nghi hoặc mà cũng khấp khởi ước mong:

Vui là vui gượng kẻo mà

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Trên trời cao, những đám mây trắng mang tên gọi như là một lời tiên tri của cuộc đời nữ nghệ sĩ Bạch Vân vẫn lãng đãng trôi về một chốn xa. Và có lẽ, chúng vẫn đem theo bao nỗi ước mơ của không chỉ một kiếp người trong cõi nhân gian.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Những tấm áo dài của mẹ

Những tấm áo dài của mẹ

“Những tấm áo dài của mẹ” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, xin được gửi đến quý vị cùng theo dõi và lắng nghe.

Bài viết:

Một khoảng trời ký ức xa xưa như chợt hiện về trong ánh mắt mờ đục của mẹ. Bàn tay người run rấy mân mê hạt khuy áo ngọc trai trên chiếc áo dài lụa Bombay màu be hồng đã lỗ chỗ đôi ba nốt bã chè. Tôi biết, đó là tấm áo dài duy nhất của mẹ còn lại từ những năm thuộc thập niên 50 của thế kỷ trước. Thời ấy, cha tôi đang còn là một ông chủ hãng xe vận tải nhỏ ở Hà Nội, cảnh nhà cũng khá sung túc. Chiếc áo này mẹ đã mặc khi bế tôi đứng chụp ảnh cạnh chiếc xe nhà, bên hè phố Cửa Đông. Chiếc ảnh ấy nay hãy còn lưu trong tập ảnh gia đình.

undefined
Áo dài của người phụ nữ xưa

Mùa xuân năm Canh Thìn, năm 2000, Tết xong, mẹ tôi ngã bệnh nặng, chạy chữa thuốc thang suốt hơn nửa năm trời không thuyên giảm. Mấy ngày cuối cùng, các mợ, các thím trong họ qua thăm, lúc ra về, đều gọi chị em tôi ra bảo nhỏ:

- Sắp sửa cho mẹ đi, kẻo khi việc xảy ra lại vội vàng.

Dù thương mẹ đứt ruột, nhưng chị em tôi không thể không nghe lời các thím, các mợ.

Ngăn tủ quần áo của mẹ được giở ra. Nhà chật, đương nhiên mẹ trông thấy hết, dù bà đã nằm liệt trên chiếc giường nơi góc phòng. Mẹ bình thản bảo tôi, lúc ấy đang ngồi xoa lưng cho bà:

- Các chị đang sắp sửa cho mẹ đi đấy!

Tôi suýt ứa nước mắt, song vội gạt đi:

- Mẹ cứ nghĩ quẩn, mấy hôm rồi mưa ngâu, sợ quần áo ẩm, chúng con lấy ra đem phơi thôi mà.

Mẹ tôi lắc đầu nhẹ, gọi chị cả tôi đem lại cho bà một bọc gói lớn xếp trên ngăn tủ cao nhất. Bọc khăn vuông sợi chéo "mậu dịch", nền xanh hòa bình kẻ viền màu nâu, dấu vết của thời bao cấp cách đây đã gần 40 năm. Ấy là bọc áo dài của mẹ, áo dài cũ. Còn những chiếc áo đang dùng, vẫn treo sắp hàng trên mắc, trong ngăn tủ gương.

Tôi run run mở mãi mới được chiếc nút khăn buộc chéo dễ đến hai ba múi chặt. Một khoảng trời ký ức xa xưa như chợt hiện về trong ánh mắt mờ đục của mẹ. Bàn tay người run rẩy mân mê hạt khuy áo ngọc trai trên chiếc áo dài lụa Bombay màu be hồng đã lỗ chỗ đôi ba nốt bã chè. Tôi biết, đó là tấm áo dài duy nhất của mẹ còn lại từ những năm thuộc thập niên 50 của thế kỷ trước. Thời ấy, cha tôi đang còn là một ông chủ hãng xe vận tải nhỏ ở Hà Nội, cảnh nhà cũng khá sung túc. Chiếc áo này mẹ đã mặc khi bế tôi đứng chụp ảnh cạnh chiếc xe nhà, bên hè phố Cửa Đông. Chiếc ảnh ấy nay hãy còn lưu trong tập ảnh gia đình.

Còn hàng chục chiếc áo của mẹ may cùng dạo ấy, thì vào thời chiến tranh chống Mỹ, chị em tôi đã lôi hết ra để cắt may thành những chiếc áo mặc hàng ngày. Tội nghiệp, khi còn là áo dài thì trông chúng duyên dáng vậy, mà đến khi sửa thành áo sơ mi, trông chúng rõ ra là đồ thừa thẹo, chắp vá. Mẹ cứ nhìn chị em chúng tôi diện áo mà chẳng khen chê câu nào. Thi thoảng người lén thở dài, chắc là không muốn cho chị em tôi biết rằng người nhớ tiếc lắm vẻ đẹp của một thời cùng bao kỷ niệm về những dịp hội hè, cưới xin, tết nhất thanh bình, êm ấm. Dạo ấy vải vóc khó khăn lắm, mà ai dám chắc sẽ có lúc nào lại được mặc áo dài đi chơi trên phố Hà Nội?

Một tập áo khác, bàn tay mẹ yếu ớt cố cầm soi lên luồng ánh sáng nơi cửa sổ. Đây là bộ áo kép của bà ngoại. Bà ngoại để lại cho mẹ tôi khi người khuất núi. Áo lụa tơ tằm Hà Đông. Chiếc áo bên trong là áo đoạn màu vàng chanh, chiếc áo bên ngoài là áo nhiễu màu huyết dụ. Thuở sinh thời, bà ngoại tôi thường kể, phụ nữ Hà Nội thời ấy, khoảng những năm đầu và giữa thế kỷ XX, đã ít người mặc áo mớ ba tứ thân theo lối cổ, nhưng thường mặc áo kép đôi năm thân như thế. Không mấy ai chỉ mặc áo đơn. Ấy là chưa kể lượt áo cánh ngắn mặc lót bên trong. Như thế mới là kín đáo, lịch sự.

Bên dưới bọc là một tấm áo dài mùa đông, một mặt bằng lĩnh đen, thứ lĩnh Bưởi bóng nhẵn, một mặt là thứ vải láng đen hay chéo đen, tôi cũng không phân biệt rõ lắm. áo trần lối quân cờ. Chiếc áo chỉ mới hơi sờn một chút nơi khuỷu tay. Mẹ thầm thào nhắc:

- Mấy hôm rồi mẹ hay nằm mơ thấy bà ngoại các con...

Tôi bỗng sực nhớ lại hình ảnh của bà ngoại tôi những ngày mùa đông rét mướt cách đây đã trên ba bốn chục năm. Bà thường ngồi uống trà trên chiếc trường kỷ cũ kỹ, mặc đúng tấm áo dài này.

Trên đầu người đội tới hai chiếc khăn. Chiếc khăn láng đen bên trong buộc lối mỏ quạ, phủ ngang trán. Chiếc khăn len bên ngoài màu vàng mơ chỉ trùm ngang đỉnh đầu và thắt múi dưới cằm. Hai tay người thu lu ôm chiếc bình ủ nước nóng quấn mấy lần khăn vải hoa.

Rồi mẹ tôi bảo chị cả tôi mở chiếc tủ gương, ánh mắt người chầm chậm lướt qua cả một dãy áo dài mắc thành hàng trên thanh suốt ngang. Tiếng nói của mẹ nghe đã hơi thều thào song cũng còn khá rành rẽ:

- Cái áo gấm thất thể, mẹ để cho mợ các con (tức là em dâu của mẹ tôi), mợ vẫn thích một chiếc như thế mà chưa có dịp may, mợ vốn nhiệm nhặt quá. Cái áo sa tanh nâu thêu hoa cúc vàng kia, các con đem về cho thím Hai ở dưới quê. Thím cũng già rồi, chắc hay đi lễ... Còn những chiếc áo khác, các dì, các thím, ai thích chiếc nào thì lấy chiếc ấy...

Đôi mắt mẹ như bỗng mờ đi xa xăm... Chắc có lẽ người đang nhớ về cái thời tản cư năm 46, chị em dâu gái đùm bọc cháo cơm, khoai sắn, nuôi cháu, nuôi con trong những chiếc ổ rơm vàng ấm áp...

Dừng một lát, người nhắc:

- Khi mẹ đi thì chỉ cần mặc cho mẹ chiếc áo nhung hoa là đi...

Tấm áo dài nhung hoa, mẹ tôi có dễ may vào thời những năm sau sau khi đất nước đã thống nhất. Mảnh nhung do chị cả tôi đi công tác châu Âu mua tặng. Còn tấm gấm thất thể do tôi sang du lịch Trung Quốc lựa về. Mảnh sa tanh nâu, cô em út được thưởng mang biếu mẹ. Còn những tấm áo khác, hàng chục chiếc không ít, do dích tay mẹ chọn mua vải ở chợ Đồng Xuân hay trên phố Hàng Gai, Hàng Quạt, vào những năm thành phố đã bước vào thời kỳ mở cửa và hội nhập. Những là lụa vân, lụa chí cẩm, nhung the, màu tiết dê, màu vỏ đổ, màu thép sáng, màu mơ già, màu mắm tôm... và hầu hết những tấm áo dài của mẹ tôi đều được may cắt ở cửa hiệu ông Mỹ Hào, người làng Trạch Xá, trên phố Cầu Gỗ. Sau này,không hiểu tại sao, chị em chúng tôi và cả các cháu gái, cũng vẫn đến may áo dài ở chính cửa hiệu ấy, mặc dù Hà Nội bây giờ cũng có bao nhà may danh tiếng khác. Nay ông Mỹ Hào cũng đã bước qua tuổi thất thập rồi, đường kim mối chỉ không biết có còn được như xưa?

Những năm cuối đời, mẹ tôi đã có được đôi chút thư nhàn, thanh thản thường diện áo dài đi hội lễ, cưới xin... và chụp ảnh...

Nhưng mà mẹ tôi bỗng thở dài, nghe thoáng chút ngậm ngùi:

- Mẹ chỉ tiếc, bộ áo cưới của mẹ mấy năm tản cư trong kháng chiến đã không giữ được. Ngày ấy...

Mẹ tôi dường như đã mệt, trở mình quay vào bên trong và chìm dần vào giấc ngủ. Ấy là một ngày trước khi mẹ tôi qua đời chừng ba bốn hôm...

Tôi bất chợt nhớ đến câu thơ của nhà thơ Nguyễn Bính

Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía

Này gương, này lược này hoa tai...

Trước mắt tôi lung linh hình ảnh một đám rước dâu lộng lẫy thướt tha, từ nhà ngoại, ở làng Ngũ Xã bên hồ Trúc Bạch, ra Phố cổ Hàng Đồng, vào một mùa xuân cách đây đã gần sáu mươi năm...

Nội dung bài viết đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Chiếc bình tích đồng thau

Chiếc bình tích đồng thau

“Chiếc bình tích đồng thau” là nhan đề bài viết của tác giả, nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Khi đỡ chiếc bình trên tay, tôi thấy nó dường như bé hẳn đi so với trí nhớ xưa cũ của mình. Duy chỉ cái hình dáng đặc biệt hệt như một chiếc bánh dày đại trong đám hội làng, là tôi thấy y nguyên. Khắp mình nó đầy vết lồi lõm, sứt võ, dù đã được mợ tôi nhờ người hàn lại bằng những mối hàn thiếc.

Vậy mà trong vệt sáng lung linh, mờ ảo nơi thân bình, tôi như thấy hiện lên hình ảnh của những người đàn bà thân yêu nhất trong cuộc đời tôi nay đều đã khuất xa. Bà ngoại, mẹ tôi, dì tôi, mợ tôi, những người đàn bà, con gái, con dâu của làng nghề đúc đồng cổ xưa, vất vả, tảo tần, thương cháu, yêu con nhất mực.

Nghe tin mơ Liên ra đi đột ngột, Tôi chạy với về 38 phố Hàng Đồng. Lúc ấy mợ đã được đưa sang nhà tang lễ Phùng Hưng. Em Tuyết, cô em con cô con cậu của tôi sụt sùi kể chuyện:

Cho đến lúc mợ tôi đột ngột mắc cơn cảm nặng và lâm vào tình trạng hôn mê, dường như đã vô thức, bà mới chịu rời chiếc bình ủ bằng đồng thau đựng đầy nước nóng, bọc trong mấy lần khăn bông to dày.

Không phải là bởi chiếc bình thật là cao giá. Mà bởi chính là nó thật sự cần thiết cho bà. Mấy hôm ấy, trời Hà Nội đang kỳ rét đậm. Hiếm có đợt rét nào kéo dài như đợt rét đầu tháng giêng năm Tân Tỵ 2001. Đấy chính là chiếc bình ủ bằng nước nóng, thay cho lò sưởi giữ ấm thân thể.

Chiếc bình ấy tôi biết, nó có từ thuở sinh thời bà ngoại tôi, tức là bà mẹ chồng của mợ.

undefined
Bình tích đồng thau

Ngày xưa khi còn nhỏ, mỗi kỳ rét đậm, nhất là trong tiết đại hàn, tôi rất thích được vào ngủ cùng bà ngoại, vì bà thường để chiếc bình ủ ấy trong chăn, ấm ơi là ấm! Có đêm, thấy bà sẽ sàng trở mình, tôi mơ màng tỉnh giấc, thì ra là bà đang gượng nhẹ trở dậy để gỡ bớt một lượt khăn bông quấn bên ngoài chiếc bình, chắc là do nước trong bình đã giảm hơi nóng. Rồi dúi nó lại bên mình tôi, ý là để cho cháu ngoại được ngủ ngon thêm một lát trước giờ đi học.

Khi tôi lớn lên, dì Hai tôi sinh thêm em bé. Mỗi lần trời trở nồm, mưa phùn ẩm ướt, quần áo phơi cách nào cũng không khô, bà tôi liền lấy chiếc bình đồng ấy, đồ đầy nước sôi già, rồi quấn cả đám tã lót ướt của em tôi vòng quanh. Chỉ chừng nửa buổi, gỡ ra là chúng khô cong, thơm phức. Ngày ấy, những năm sáu mươi bẩy mươi của thế kỷ trước, lấy đâu ra lò sưởi điện hay máy sấy như bây giờ.

Đến mùa hạ, khi hoa sen đầu mùa chớm nở, mẹ tôi quen lệ ướp vài ba cân trà mạn để dành tiếp khách. Chiếc bình đồng lại được trưng dụng để sấy trà. Bà cho trà đã rắc gạo sen vào những túi giấy bóng mờ, gọi là giấy nến, dán kín lại. Rồi xếp những túi giấy vòng trong lòng chiếc thúng nan. Đoạn, bà đặt chiếc bình tích đã đổ đầy nước sôi già vào giữa thúng. Ủ thêm mấy tấm khăn bông vải to đùng. Qua một ngày đêm sẽ dỡ trà đem sàng bỏ lớp gạo hoa cũ, thay lớp gạo hoa mới. Cứ dăm lần ướp và ủ như thế mới hoàn thiện một mẻ trà hương. Mẹ tôi bảo rằng, trà sấy cách thuỷ kiểu ấy tuy hơi lâu nhưng bền hương, không dễ khét như trà sấy vội, kiểu sấy điện hay sấy than.

Tôi lớn lên, vào đại học, rồi đi lấy chồng, ra ở riêng. Tôi nhớ, ngày tôi sinh con đầu lòng, cũng vào một ngày tháng mười chớm đông năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước. Đích thân bà ngoại tôi còn đi xích lô xuống thăm. Tay bà ôm khư khư chiếc bình đồng thau, để cho tôi dùng ủ tã cho chắt ngoại, khiến tôi cảm động vô cùng. Bởi khi ấy, nhà tôi đang gặp hoạn nạn, vợ chồng xa cách, tôi sinh con, nuôi con một mình, hay tủi thân lắm. Sau đó, theo thời gian, cuộc sống khấm khá lên, vợ chồng tôi cũng sắm đủ, nào là máy sấy, lò sưởi điện, máy điều hòa hai chiều.

Tôi dần dần quên bằng chiếc bình đồng cổ. Hình ảnh cuối cùng về nó mà bấy lâu nay, thi thoảng tôi còn nhớ tới, là hình ảnh của bà ngoại tôi, mặc chiếc áo bông dài trần quân cờ, đầu trùm khăn mỏ quạ, tay thu lu chiếc bình ủ, trong một chiều đầu xuân giá lạnh trước khi bà tôi qua đời ít lâu. Ngày ấy thế mà cách đây đã gần bốn mươi năm.

Khi bà tôi khuất núi, chiếc bình được truyền cho cô con dâu, tức là người mợ hiền của tôi. Giữa đất Hà Nội những năm cuối thế kỷ hai mươi, đầu thế kỷ XXI, mà mợ tôi vẫn dùng chiếc bình ủ ấy, bởi vì nhà mợ vốn không dư giả gì. Mà cũng bởi vì nhà mợ đun bếp than suốt ngày, nước non rất tiện. Rồi còn bởi một lý do vô cùng thiêng liêng nữa. Đó là gia đình bên ngoại tôi vốn quê gốc ở làng đúc đồng Bắc Ninh, làng Dí Hạ, tên chữ là làng Đào Viên thuộc xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành. Sau họ tộc theo lên sinh sống và hành nghề ở làng Ngũ Xã bên hồ Trúc Bạch, rồi chuyển về ở phố Hàng Đồng mở cửa hàng buôn bán. Có một thời nhà nước quản lý nghiêm ngặt. Nghề đúc đồng và buôn bán đồ đồng bị cấm, gia đình bên ngoại tôi đành phải bỏ nghề trong khoảng vài ba chục năm, mới khôi phục lại cửa hàng, cũng chả dám bày biện to tát gì.

Vào thời buổi khó khăn đó, những món đồ đồng như xanh nồi, đỉnh đèn, lư hương thật là những món đồ cổ quý giá. Chiếc bình đồng cũng vậy. Cậu mợ tôi thi thoảng mua được một mẻ thiếc vụn, đem đúc thành một thoi trên bếp than quả bàng ở sân sau, để bán cho những nhà hàn nồi hàn xoong bên phố Hàng Thiếc, và để hàn chính chiếc bình đồng này những lúc nó không may bị đánh rơi sứt vỡ. Mỗi lúc làm vụng làm trộm một mẻ hàng như thế, cứ phải cài then đóng chặt cửa nhà. Công an mà biết được thì hết đường sống.

Mợ tôi là một người đàn bà phố cổ, nhà ngoại của mợ ngay bên phố Thuốc Bắc. Tên cúng cơm của mợ là Chung. Mãi sau tôi mới biết. Chứ toàn gọi mợ theo tên cậu Liên tôi. Mợ rất đảm đang, chịu khó và nhẫn nhịn. Mợ nhất mực phục tùng và e sợ cậu tôi, một giai phố cổ chính hiệu, con trai duy nhất của ông ký tòa cũ, mà sang thời chế độ mới, thành anh công nhân. Anh công nhân nhưng vẫn không bỏ nếp sống "cậu ấm" cũ. Mợ tự hiểu mà phục vụ. Kể cả suốt một thời chiến tranh bao cấp khó khăn ngặt nghèo, mợ vẫn thổi riêng cho cậu tôi một cái niêu mốt đồng điếu cơm gạo quê.

Còn cả nhà ăn cơm gạo mậu dịch. Cậu tôi dù thời buổi nào cũng giữ thói quen đọc sách và sưu tầm sách. Cậu cần đến tiền mua sách và tiếp đãi trà rượu các bạn bè yêu văn chương, là mợ tôi phải đưa, bất biết nhà thiếu đủ ra sao. Không một câu than thân trách phận.

Nghĩ lại mà thương mợ quá.

Sau này, có lần vào thăm mợ, lúc trà nước rôm rả, tôi vui miệng nói đùa: "Khi nào mợ hai năm mươi, mợ nhớ cho con chiếc bình đồng, còn con không xin gì cả". Thế mà mợ tôi cười, đưa tay vuốt đôi khóe miệng tươi màu nước cốt trầu, hàm răng đen hạt na lấp lánh. Mợ bằng lòng ngay. Bởi vì tôi là một đứa cháu gái rất được mợ yêu quý. Dù hoàn cảnh riêng còn nhiều vất vả, song tôi bao giờ cũng vẫn nhớ qua lại đỡ đần, thăm hỏi mợ và các em tôi, nhất là khi cậu tôi đã sớm đi xa, để lại mợ với gánh nặng nuôi bốn đứa em tôi đang tuổi ăn tuổi lớn, học hành còn dang dở.

Ngờ đâu, mợ tôi đột ngột qua đời, không kịp dặn dò cháu con lấy một lời. Hôm cúng ba ngày mợ, em Tuyết tôi dỡ chiếc bình từ trong bọc khăn bông tưởng còn ấm hơi mợ, dốc nước trong bình cho hết để đưa cho tôi. Nước mắt tôi ròng ròng chảy theo dòng nước trong vắt róc rách tuôn xuống tự cổ bình. Khi đỡ chiếc bình trên tay, tôi thấy nó dường như bé hẳn đi so với trí nhớ xưa cũ của mình. Duy chỉ cái hình dáng đặc biệt hệt như một chiếc bánh dày đại trong đám hội làng, là tôi thấy y nguyên. Khắp mình nó đầy vết lồi lõm, sứt vỡ, dù đã được mợ tôi nhờ người hàn lại bằng những mối hàn thiếc.

Vậy mà trong vệt sáng lung linh, mờ ảo nơi thân bình, tôi như thấy hiện lên hình ảnh của những người đàn bà thân yêu nhất trong cuộc đời tôi nay đều đã khuất xa. Bà ngoại, mẹ tôi, dì tôi, mợ tôi, những người đàn bà, con gái, con dâu của làng nghề đúc đồng cổ xưa, vất vả, tảo tần, thương cháu, yêu con nhất mực.

Tôi đem chiếc bình về nhà, ủ mẻ chua và xin nắm cát đen đánh sạch bóng, lấy rượu thơm tráng lại, đem để cạnh chiếc tráp trâu khảm trai, bịt viền đồng là kỷ vật của mẹ tôi để lại, và những món đồ đồng khác mà tôi đi du lịch các nước mang về, cũng như những tác phẩm đồ đồng mỹ nghệ của các nghệ nhân Hà Nội mà tôi sưu tầm được trong những năm đi làm báo hình tại Đài Hà Nội.

Các con tôi về nhà thấy chiếc bình là lạ, méo mó và xấu xí để trong phòng khách, chúng ngạc nhiên lắm. Bởi vậy tôi đã kể lại chuyện cho chúng nghe. Và đó chính chính là câu chuyện này đây.

Các bạn tôi ơi!

Nội dung bài viết “Chiếc bình tích đồng thau” đến đây xin được tạm dừng, cảm ơn quý vị đã dành thời gian lắng nghe. Thân ái chào tạm biệt quý vị và các bạn!

Thuỷ chung tà áo dài quê hương

Thuỷ chung tà áo dài quê hương

“Thủy chung tà áo quê hương” - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trên tấm phản gỗ gia truyền ở hiệu may Đức Trạch, khi nào cũng bộn bề hàng chục tấm vải và những bộ áo quần đang may cắt dở dang. Không biết bao nhiêu thế hệ thợ thuyền đã nhỏ những giọt mồ hôi âm thầm, nhuốm vào từng thớ gỗ mịn óng, tưởng chừng có thể soi gương...

Sáng sớm, trên thành phố Lương Văn Can có một người khách lạ mang trong mình hai dòng máu Việt Pháp. Người mẹ Việt của bà đã mất sớm. Lớn lên trên đất Pháp, lấy chồng Pháp, lập nghiệp tại Pháp, bà Daniel hầu như chỉ còn mang máng nhớ đôi ba từ tiếng Việt. Trong số đó, may mắn sao, có hai chữ: "Áo dài".

undefined
Người phụ nữ Hà Nội trong tà áo dài xưa

Tuổi ngoại 50, về thăm quê ngoại, tìm đến hiệu may Đức Trạch trên phố Lương Văn Can, có lẽ bởi bà Daniel còn nhớ những câu chuyện của người mẹ xa xứ thuở sinh thời về Hà Nội trong vầng sáng nơi ký ức.

Đức Trạch, chính là hiệu may ta cổ xưa, do người làng Trạch Xá mở vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 tại Hà Nội.

Thoạt kỳ thuỷ, hiệu chưa có tên. Trong hiệu, nay còn lưu hai tấm phản gỗ lim dài rộng khác thường. Chúng choán gần hết lòng nhà, tím sậm màu quá vãng... Đó là chỗ mà ngày ngày hàng chục người thợ may cặm cụi ngồi khâu vá, đính khuy, thêu hoa cho những tấm áo dài, áo cánh, áo bông cho khách hàng Hà Nội và các vùng quê lân cận.

Năm tháng như nước chảy, song đọng lại nơi miền phù sa ký ức, vẫn là những kỷ niệm tươi xanh. Rời xa ánh đèn sân khấu lộng lẫy đã từ lâu, nhưng đôi vợ chồng nghệ sĩ Vũ Dậu - Ngọc Hướng vẫn trân trọng lưu giữ những chiếc áo dài biểu diễn và cả tấm áo cô dâu hoa xanh trắng của người vợ từng một thời nổi danh tài sắc. Những chiếc áo dài Hà Nội đã từng theo chân nghệ sĩ ưu tú Vũ Dậu cùng bao nghệ sĩ nổi tiếng như Thanh Huyên, Tường Vy, Lệ Quyên, Tuyết Thanh, Thuy Quỳnh, Hoàng Mỹ, bay sang khắp thế giới. Ngày ấy, hầu hết chúng đã được cắt may từ cửa hiệu áo dài Mỹ Hào nhỏ bé ở số nhà 82 phố Cầu Gỗ.

Ở tuổi xấp xỉ bẩy mươi, ông Mỹ Hào không nhớ nổi trong cuộc đời làm thợ, ông đã từng cắt may bao nhiêu chiếc áo dài, áo kép, áo cánh, áo bông cho người Hà Nội. Tuy nhiên, chúng không thể dừng ở con số hàng trăm ngàn. Khách hàng thuộc giới tiểu thương, phụ nữ bình dân cũng rất mến mộ tài danh của ông Mỹ Hào. Và không chỉ người Hà Nội, mà người đâu xa cũng tìm đến.

Mỗi ngày, từ xưởng thợ gia đình của ông Mỹ Hào, có khoảng 20 đến 30 bộ áo dài được ra đời. Vào vụ cưới hay giáp tết, nhà càng đông khách hơn. Ông Mỹ Hào có bí quyết nhìn người mà áng cỡ dáng áo. Người vai xuôi may khác kiểu người vai ngang, người béo mập may khác kiểu người gầy mảnh. Bởi vậy phần nách áo, nơi khó nhất, vẫn thường là vừa sát thân hình người khách, không mấy khi bị lệch lạc, dúm dó. Ông Mỹ Hào cắt áo, bà Mỹ Hào và các con may áo, đơm khuy, vắt vạt.

Đến nay, 3 - 4 người con trai con gái nhà ông Mỹ Hào vẫn nối nghề. Cửa hiệu chính giao cho cô con dâu Thanh Bình. Một người con trai mở cửa hàng áo dài mới mang tên Mỹ Sơn ở số nhà 92 cùng phố Cầu Gỗ. Cô con gái tên Thanh Nga mở cửa hàng ở phố Nghĩa Dũng. Các cửa hàng đều cũng khá đông khách. Ông Mỹ Hào tuổi cao, bệnh nặng, thường về quê Trạch Xá an dưỡng. Thi thoảng, ông mới trở ra Hà Nội, ngồi dựa cửa ngắm những dòng xe cộ vùn vụt chạy qua dãy phố Cầu Gỗ đông đúc chật hẹp.

Cả bốn thế hệ phụ nữ gia đình nhà tôi, từ bà ngoại, mẹ, tôi và con gái tôi đều đã may áo dài từ chính cửa hiệu của ông Mỹ Hào. Đến nay, tôi vẫn còn giữ lại một số tấm áo dài Mỹ Hào của cả bốn thế hệ trong bộ sưu tập gia đình. Xế nhà ông Mỹ Hào trên phố Cầu Gỗ, có hiệu áo dài của ông Mỹ Vinh. Ông Mỹ Vinh là cháu họ của ông Mỹ Hào. Hiệu may Mỹ Vinh cũng khá đông khách, đa phần là các phụ nữ trung niên trong khu phố cổ và phố cũ tìm đến.

Không chỉ riêng khán giả màn ảnh nhỏ, mà ngay cả đồng nghiệp trong giới truyền hình cũng trầm trồ thán phục vẻ đẹp của những tấm áo dài mà phát thanh viên Thu Vân thường mặc trong các buổi lên hình. Có lần, Thu Vân "bật mí": áo của Thu Vân không phải đã được may từ những cửa hàng nổi tiếng ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, hay từ những nhà may thời trang lớn, thường trưng tên trên các phương tiện thông tin quảng cáo ở Hà Nội. Những chiếc áo dài của Thu Vân và một số nữ đồng nghiệp trong Đài Hà Nội như Lệ Diễm, Thu Hiền, Quỳnh Hoa đã được may từ một cửa hiệu áo dài đơn sơ nằm trên phố Tạ Hiện, trong khu phố cổ. Đó là hiệu áo dài Xuân Đạm trên phố Tạ Hiện. Chủ cửa hiệu cũng là người làng Trạch Xá, và là em vợ của ông Mỹ Hào. Kém ông Mỹ Hào đúng một thập kỷ tuổi tác, và trước sau đều học nghề của ông chú họ Mỹ Thịnh trên phố Cầu Gỗ, song lúc ông Xuân Đạm ra nghề, lại là lúc đất nước đang lâm cảnh chiến tranh.

Phố Hà Nội vắng bóng áo dài

Mươi lăm năm trở lại lại đây, đất nước trên đà hưng thịnh. Hương sắc, tinh hoa của nền văn hóa truyền thống được khơi dậy và tỏa rạng. Cũng là lúc tay nghề của ông Xuân Đạm đạt tới độ chín. Trong cuộc sống gia đình, ông Đạm là người nghiêm khắc đến thành cứng nhắc, cẩn thận hóa thành khó tính. Trong nghề nghiệp, ông cũng vẫn giữ nguyên những tính cách hơi khác lạ so với nhiều người trong giới làm dịch vụ đời sống ở đô thị. Nhưng phải chăng, đó là cái duyên giữ khách kỳ lạ của người thợ lão luyện.

Xưa kia, ở mỗi làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ, thường bao giờ cũng có một vài ông lang, bà đỡ, thầy đồ, phó mộc, phó rèn, phó may... để lo các dịch vụ cần thiết trong dân. Tương truyền, những ông phó may của làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, nồi tiếng khéo tay và chăm chỉ, chịu khó.

Từ thời Lê - Trịnh, tiếng tăm của thợ may Trạch Xá đã vang xa tận kinh thành Thăng Long. Nhiều gia đình quan lại, thượng lưu nơi Kẻ Chợ đua nhau rước thợ Trạch Xá về nhà cắt may cho cả họ vào mỗi vụ giáp tết, hay lúc sắp có việc khao đãi, cưới xin.

Những lớp thợ Trạch Xá, trẻ ra Kẻ Chợ làm ăn, già lại về quê truyền nghề cho con cháu, giúp chúng nối bước lên phố lập nghiệp, ấy cũng là cái vòng sống đều đặn không mấy biến động giữa các làng nghề thôn quê với các phố nghề nơi thành thị từ bao đời.

Sang thời Nguyễn, người làng Trạch Xá lên Hà Nội phần lớn sống trong những ngôi nhà mặt sau khuất khúc của phố tơ lụa Hàng Đào sầm uất. Như thế, cốt để thuận tiện cho việc phục vụ khách khứa thị dân, khi họ đến mua vải vóc và đặt may áo quần. Sau Đức Trạch ở nhà số 6, thì Đông Trạch ở nhà số 20 phố Lương Văn Can cũng sớm nổi danh từ những năm đầu thế kỷ 20. Chủ hiệu là người họ Tạ. Cửa hàng Vạn Mỹ ở số 22 kế bên, cũng do một người họ Tạ đứng chủ. Trong vòng hơn ngót nửa thế kỷ, nhà họ Tạ có 5 anh em trai, 5 nàng dâu, thì trước sau đều theo nghề may ta.

Một ông thợ áo dài họ Tạ thuộc chi khác là ông Tiến Trạch thì mở cửa hàng ở 65 Phố Huế. Sau này, khi ông Tiến Trạch đến tuổi già yếu thì đã kịp truyền nghề cho ba cô con gái xinh đẹp. Đó là cô chủ hiệu áo dài Thanh Châu trên phố Mai Hắc Đế và hai người chị em gái ruột của cô là Hồng Anh trên phố Ngô Thì Nhậm, và Hồng Thanh trên Phố Huế. Các cô chính là thế hệ mới đang theo nghề áo dài truyền thống của làng quê với rất nhiều sự tiếp thụ những kiến thức thời trang áo dài hiện đại theo nhu cầu và thị hiếu của khách hàng Hà Nội thế kỷ XXI với những kiểu dáng áo dài đa dạng, phong phú song không hề làm mất đi những nét đẹp truyền thống của tà áo dài Việt Nam.

Chẳng riêng nhà họ Tạ của ông Vạn Mỹ, ông Tiến Trạch, nhà họ Lê của ông Mỹ Hào, hay nhà họ Nghiêm của ông Xuân Đạm, hàng trăm gia đình làm nghề may y phục dân tộc ở rải rác trên các phố Hà Nội, hầu như đều có mối liên hệ ruột thịt, họ hàng, thông gia, láng giềng thân thuộc, có chung một xuất xứ, gốc gác và cùng gắn kết với nhau trong hội đồng hương Trạch Xá.

Trong ký ức những người Hà Nội sống vào thời cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cụ phó Dùi, người làng Trạch Xá nối danh là một ông thợ may tài khéo và đắt khách. Người ngày xưa may áo như thế nào? Khách chỉ cần đem chiếc áo cũ đến hiệu, ông thợ may Trạch Xá chỉ đo áo mẫu, rồi áng chừng khổ người bà khách béo lên hay gầy đi, mà gia giảm chút ít, thậm chí, khách không cần phải đến cửa hiệu, chỉ gửi áo mẫu là xong. Nhưng áo cắt lên thì thường rất vừa vặn, không mấy khi phải chữa chạy.

Được cái là người xưa vẫn thường may váy phòng lúc cả dạ, tức là khi mang bầu, nên không hay may sát khổ người như thời nay.Từ khi đất nước liền một dải, sau năm 1975, và nhất là trong thời kỳ kinh tế mở cửa, hội nhập, sau năm 1985, phong trào áo dài hồi sinh, phát triển mạnh mẽ. Đó là vận hội tốt cho phố Lương Văn Can, cho các gia đình thợ may y phục dân tộc Hà Nội và cho làng nghề Trạch Xá.

Thời gian vẫn như một dòng chảy không thể đổi ngược. Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, cụ Nguyễn Văn Ớt là một tay kéo sắc nước trên phố Lương Văn Can. Là người thuộc thế hệ thứ 5 trong một gia đình chuyên nghề may ta, hơn nửa thế kỷ nồi danh xa gần, cụ là chủ tịch hội đồng hương Trạch Xá ở Hà Nội. Ở tuổi 76, cụ Ớt đã trở về làng cũ nghỉ ngơi, chức chủ tịch hội đồng hương Trạch Xá trao lại cho ông Mỹ Hào ở phố Cầu Gỗ. Dưới mái nhà đơn sơ có dàn mướp hoa vàng rủ bóng, trong bộ quần áo nâu giản dị, mái tóc và đôi lông mày bạc trăng, nom cụ như một bậc chân tu thoát tục.

Các con trai gái đều thành thục trong nghề, đường kim mũi chỉ đã nghe liền lạc, mịn ềm. Dấu cũ vết xưa vẫn có cháu con trân trọng tiếp nối, cho người đời vẫn nhớ danh thơm làng quê Trạch Xá, Đồng tuế, đồng niền với cụ Nguyễn Văn Ớt, cụ Lê Văn Quảng đã có sau lưng 70 tuổi nghề, bởi cụ lên phố học việc từ năm lên 6 tuổi.

Trời thương, vẫn cho cụ sáng đôi mắt, vững đôi tay, xâu kim thoăn thoắt, lát kéo ngọt êm, đường may phẳng phiu. Dưới một mái hiên rộng, bên sân thóc mới gặt thơm hương nắng mới, cụ đang tỉ mẩn truyền nghề cho lũ cháu nội ngoại, những mong chúng nối nghiệp tổ tiên lâu dài.

Xa xưa, người Trạch Xá chỉ truyền nghề cho con cháu trong nhà, trong họ, hiếm khi để lọt đến người ngoài. Song lâu nay, làng nghề cũng hòa chung với dòng chảy rộng lớn của thời đại mới. Thị trường áo dài ngày một sôi động, bà Thuấn, chủ hiệu may Quỳnh Dao bên chợ Trương Định đã tìm đến học thêm nghề áo dài ở cụ phó Thuận trên phố Lương Văn Can, khi bà đã có thâm niên gần 40 năm trong nghề may trang phục thông dụng ở Hà Nội. Khi bà Thuấn đã thành đạt trong nghề áo dài, thì cụ phó Thuận cũng đến tuổi quy tiên. Nhưng từ đó, bà Thuấn vẫn giữ mối quan hệ chị em, bạn hàng, bạn nghề thân thiết với gia đình cô Bở, ở khu tập thể Thanh Xuân Bắc. Cô là con dâu của cụ Thuận, và cũng chính là con gái cụ Ớt. Mỗi kỳ lễ tết, bà Thuấn không khi nào quên sang nhà thắp nén hương thơm tưởng nhớ ơn đức của người thầy quá cố tài khéo và nhân hậu. Bao năm say mê nghề áo dài, gắn bó thân thiết với người trong nghề, bà Thuấn như đã trở thành một người con của làng Trạch Xá Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu ấn rõ nét nhất, đậm đà nhất của bản sắc mỗi dân tộc trên thế giới. Sau bao năm trăn trở suy ngẫm, hình như đã đến lúc chúng ta cần tới hình mẫu của những bộ quốc phục, lễ phục mang dấu ấn dân tộc Việt Nam. Ước sao, các nhà nghiên cứu, thiết kế mẫu sẽ chắt lọc được những nét đẹp tinh tuý, bền vững qua thời gian của bộ trang phục truyền thống, để thể hiện trong các sáng tác mới, nhằm đạt tới sự hài hoa giữa tính dân tộc và hiện đại.

Đúng ngày hẹn, phát thanh viên Thu Vân cùng người mẹ vốn là một nữ sinh cao đẳng sư phạm duyên dáng năm xưa, đến thử áo ở cửa hàng Xuân Đạm. Tác giả của những chiếc áo dài lần này không phải là người cha mà là cậu con trai ông, anh Xuân Dũng.

Năm nay, anh vừa bước qua ngưỡng tuổi tam thập, tam thập nhi lập. Lát kéo đường kim của anh dù đã rất thuần thục mà cũng vẫn khó có thể làm vừa lòng người cha, người thầy gần gũi mà rất khắt khe. Song mong cho con hơn cha, chẳng phải là tâm nguyện của riêng một nhà.

Năm 2004. Gia đình tôi chuyển nhà xuống làng Giáp Nhất quận Thanh Xuân. Hồi ấy khu vực này còn vắng vẻ lắm. Mỗi khi may áo dài, tôi vẫn phải tìm về khu phố cổ. Nhưng không lâu sau đó đã thấy xuất hiện một hiệu áo dài mới ở ngay phố Quan Nhân liền kề với Giáp Nhất. Thế nên việc may cắt áo dài với tôi, một tín đồ trung thành của áo dài lại trở nên quá thuận tiện. Hỏi ra thì anh chủ Minh Phương lại cũng chính là người quê gốc Trạch Xá.

Hiệu nhỏ ở phố hơi khuất nẻo, thế nên dù cắt may rất khéo nhưng anh cũng chỉ lấy công rẻ, chỉ bằng già nửa so với các hiệu may trên phố trung tâm Hà Nội. Sau này, anh Minh Phương đã trở thành thợ chuyên may áo dài đồng phục cho Đoàn thiện nguyện câu lạc bộ nhà báo nữ Việt Nam chúng tôi. Vải đồng phục cứ giao cả súc cho anh, ai đến may áo thì anh đo cắt cẩn thận. Còn hết bao nhiêu chẳng phải lo tính đếm thiếu thừa như những nơi này nơi khác.

Giờ đây, các nhà nghiên cứu mỹ thuật thời trang và các vị khách cầu kỳ có ý hướng phục cổ, muốn may một bộ áo dài theo đúng lối ngày xưa là áo 5 thân, vai liền, tay chắp, khuy tết thì cũng phải tìm về gia đình ông Thắng ở làng Trạch Xá. Ông Thắng cẩn thận rút chỉ chính những sợi lụa vải khách đem đến để khâu tay cho chính chiếc áo đó. Như thế để đảm bảo khi giặt là áo, áo không bị nhăn nhúm mà sẽ phẳng phiu vì chỉ may nào sẽ đồng bộ với lụa vải đó.

Trên tấm phản gỗ gia truyền ở hiệu may Đức Trạch, khi nào cũng bộn bề hàng chục tấm vải và những bộ áo quần đang may cắt dở dang. Không biết bao nhiêu thế hệ thợ thuyền đã nhỏ những giọt mồ hôi âm thầm, nhuốm vào từng thớ gỗ mịn óng, tưởng chừng có thể soi gương...

Tấm áo mà bà Daniel - Mactin đặt may đang ở những mũi kim chót cùng, gấp rút cho kịp ngày bà lên đường trở sang Pháp. Song trên tay anh thợ trẻ, những mũi chỉ vẫn đều đặn, mịn màng và óng nuột. Con người chỉ mang có nửa dòng máu Việt, sống xa đất Việt từ thuở còn trứng nước, sau nửa thế kỷ, vòng nửa trái đất quay về, ngóng chờ một tấm áo nơi quê mẹ, hẳn không chỉ để tránh ngăn những cơn băng giá của thiên nhiên khắc nghiệt phía trời xa.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Phục hồi thú chơi hoa thuỷ tiên

Phục hồi thú chơi hoa thuỷ tiên

“PHỤC HỒI THÚ CHƠI HOA THỦY TIÊN” - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Khi thuỷ tiên nở hoa, mỗi cụm hoa mang một dáng vẻ khác nhau theo lối đặt tên của các cụ xưa. Dáng phượng múa, dáng rồng bay, dáng hạc chấu, dáng tiên sa... Mỗi cụm hoa thực sự là một tác phẩm nghệ thuật mang dấu ấn độc đáo của bàn tay người yêu hoa, và là kết quả của nghệ thuật gọt tỉa thủy tiên khởi từ trước đó hàng tháng trời. Chính bởi vậy, người xưa mới ham thích thú chơi thuỷ tiên, thú chơi giàu sáng tạo và giàu tính thẩm mỹ, nghệ thuật.

Thấm thoắt thế là đã gần nửa thế kỷ đã trôi qua, hôm nay cụ giáo Lê Đăng Nghị ở phường Thanh Lương mới được cầm lại trên tay con dao nhỏ thân thiết ngày xưa. Con dao có hình dáng đặc biệt kỳ lạ. Một đầu như chiếc lưỡi rìu nhỏ sắc lẹm, một đầu như lưỡi thuổng tí xíu hình lòng máng. Đó chính là con dao gọt và tỉa thủy tiên chuyên nghệ. Dường như thoáng một nỗi bồi hồi, mong nhớ đang dâng ứ trong đôi khoé mắt và đôi bàn tay của ông lão tuổi ngoại tám mươi khi bỗng dưng chạm vào từng dáng nét của một vẻ đẹp xưa:

Chơi hoa thủy tiên là một thú chơi xuân lâu đời của người Hà Nội. Nhưng trải qua mấy chục năm chiến tranh giặc giã rồi bao cấp khó khăn, thú chơi thủy tiên mai một dần. Rồi sau đó lại xảy chiến tranh biên giới phía Bắc, nguồn củ thủy tiên từ Trung Quốc về Việt Nam không còn. Thế nên coi như đứt đoạn mấy mươi năm trời nay mới bắt đầu nối lại.

undefined
Hoa thủy tiên trắng

Không phải bỗng dưng mà bài viết về "Thú chơi hoa thủy tiên" của nhà báo lão làng Nguyễn Hà thuở sinh thời chỉ gồm có mấy trăm chữ đăng trên số tết của một tờ tuần báo lại được trả nhuận bút khá cao. Mọi người nói đùa, mỗi chữ đáng giá bạc ngàn. Còn nhà báo Nguyễn Hà thì rằng, đó là nhờ ở lộc của ông cụ thân sinh một cụ đồ nho Hà Thành từng một thời đam mê thú chơi tao nhã ấy. Nhà báo Nguyễn Hà kể rằng, mỗi năm vào dịp cuối tháng một, tức tháng mười một âm lịch, cụ đồ thường trở qua, trở lại ngày đôi ba lần trên phố Hàng Buồm, Phúc Kiến (Tức Lãn Ông bây giờ) để chọn mua bằng được một "Bắp" tức một thùng củ thủy tiên do các nhà buôn Tàu bày bán. Có nhiều loại lắm. Cứ củ càng to thì càng đắt tiền. Rồi sau đó, cụ tìm cách lánh hẳn việc nhà, từ chối không tiếp khách khứa trong hàng tuần liền, để chăm lo chuyên chú cho việc gọt tỉa thủy tiên. Khi ấy, có ai sơ ý hỏi han điều gì, cụ đều không trả lời, coi như người đã nhập thiền vậy. Nhà báo Nguyễn Hà hồi nhớ: Sau khi gọt, các lát cắt của củ hoa sẽ chảy nhựa, cụ tôi phải đem củ thủy tiên ngâm úp vào nước để nhựa tiết ra tan chảy hết.

Gọi là "ngâm cầu". Ngâm khoảng ngót một ngày thì được. Trong thời gian ngâm thì cứ dăm sáu giờ đồng hồ lại phải rửa cho củ thủy tiên sạch nhớt. Nếu không sạch nhớt thì củ sẽ bị thối. Mỗi năm cụ giở ra gọt thủy tiên thì cứ lục đục suốt đêm, hầu như chả chợp mắt lúc nào.

Hàng năm, cứ vào dịp đầu tháng chạp âm lịch, khi những cơn gió bấc cuối đông dường như đã chùng lại trước những làn hơi ấm đầu xuân mơ màng, ấy là lúc những người chơi hoa sẽ vào cuộc mới. Những củ thuỷ tiên khô do lái buôn đem về từ các tỉnh duyên hải Nam Trung Hoa, bây giờ sẽ được đem ngâm nước cho căng mọng và nhú mầm. Nom chúng tựa như những củ hành tây vừa ra giống. Sau đó, họ, những người chơi thủy tiên chuyên nghệ sẽ tìm lấy một chốn kín đáo, khuất nẻo để chuyên tâm lo việc gọt tỉa hoa.

Gọt tỉa thuỷ tiền, đó chính là một công đoạn tỉ mỉ, khó khăn, phức tạp và rắc rối nhất trong cách chơi thuỷ tiên cổ truyền Cụ giáo Lê Đăng Nghị còn nhớ rất tỷ mỷ:

- Phải chọn đoán cho đúng phần mặt chính của củ. Nếu vô ý gọt trái mặt, củ thuỷ tiên sẽ đâm mầm tréo nghẹo, mắt hết tư thế đẹp. Mà khi gọt phải lựa đôi tay cho khéo, kẻo phạm phải chỗ đọt mầm tương lai, củ thuỷ tiên sẽ bị hoại nát mà thui chột mất dò hoa.

Lại phải gọt hướng sao cho các mầm hoa sau này sẽ vươn theo thế đã chọn. Không để chúng trổ lung tung, vô lối. Toàn là phải dò dẫm, đoán định, phỏng chừng, ấy mới là khó chứ.

Sau công đoạn ngâm cầu, người ta bắt đầu giai đoạn dưỡng hoa. Chủ yếu là dưỡng bằng nước sạch. Người chơi hoa ngâm củ thủy tiên trong các bát gốm hoặc sứ rồi hằng ngày bắt đầu quá trình chăm sóc rất tỷ mẩn, cẩn trọng. Sau mỗi lần gọt sửa, củ thuỷ tiên phải được lau rửa bằng nước nhiều lần cho sạch nhựa. Các cụ ta thường rửa thuỷ tiên bằng chổi lông gà hay chối tóc. Như thế vừa sạch sẽ, vừa tránh xây xước, tránh làm tổn thương tới các mầm đọt non và cả bộ rễ mới kịp nhú. Củ thủy tiên từ lúc nảy mầm, đâm rễ, trổ giò, kết nụ phải trải qua ba bốn lần gọt tỉa, sửa sang và hàng vài ba chục lần thay nước mới. Thủy tiên là giống hoa ưa sạch sẽ, tinh khiết. Bởi thế, nó cần được uống nước trong hàng ngày và phải được đặt ở nơi thoáng mát, không vương bụi bậm, không ướm hơi xú uế.

Bà Quách Hồng Huyền là con gái làng Yên Phụ lên làm dâu làng Nghi Tàm. Cả đôi bên nội ngoại của gia đình đều có nghề gọt tỉa thủy tiên. Có lần bà Huyền còn tìm sang tận Phúc Kiến - Trung Quốc để cất thủy tiên về Hà Nội làm hoa thủy tiên của nhà bà.

Huyền cũng thuộc diện làm đại trà, giá bình dân chứ không phải thuộc diện cắt tỉa nghệ thuật kỹ càng, giá đặc biệt. Nhưng được cái bà Huyền có tài đoán đúng cho thủy tiên nở trong khoảng từ chiều ba mươi đến sáng mồng một ta, đúng mong muốn của khách chơi hoa nên bán buôn khá đắt hàng. Từ năm 2000, bà bắt đầu mở rộng việc kinh doanh thủy tiên, có năm bà làm tới dăm trăm bát thủy tiên, nhưng sau phải giảm dần.

- Đau lưng lắm bác ạ. Làm nhiều không chăm chút được hàng ngày, cây nó không thể đẹp được. Có khi lúc cắt gọt mong nó trổ hoa thế nọ nhưng nó lại trổ ra thế kia. Con cái dỗ mãi nó cũng chả thích theo nghề. Năm Canh Tý vừa rồi là năm nhuận, đắn đo cẩn thận lắm rồi mà người tính chả bằng trời tính. Cả Hà Nội thủy tiên đều nở sớm. Hăm nhăm hăm bẩy tết mà đã trắng rực cả chợ hoa. May nhà em còn vớt vát được vài trăm bình nở hăm chín ba mươi.

Hút chết bác ạ. Với lại, trước đây Nghi Tàm cũng mấy chục nhà làm thủy tiên nhưng rồi đa phần cũng thu hẹp dần vì nhà cửa cứ xây cho thuê hết, đất cát chả còn mấy mà lấy chỗ làm hoa.

Giờ đây, mỗi nhà kinh doanh hoa thủy tiên ở Hà Nội đều có cách thức và bí quyết riêng để chăm sóc cho cây thủy tiên ở giai đoạn ươm cây, trổ nụ đầy khó khăn này. Ví như củ nào kém đâm rễ, phải đem vùi trong cát ẩm. Cát phải được đãi rửa thật sạch. Thế mà trước khi vùi củ hoa vào trong bồn cát, lại phải đặt nó trong một tấm vải bông mới và sạch tinh, để chống nhiễm khuẩn làm thối bộ rễ. Khi cụm hoa trổ đủ số mầm chính, ba, năm, bẩy, chín - số lẻ bao giờ cũng hay hơn: tam đa, ngũ phúc, thất hiền, cửu long, cụm hoa cần phải được đặt trong bình thuy tinh hay bát sứ, cho cụm cây cố định dáng vẻ. Lâu nay có bát nhựa thay thế vừa rẻ vừa đỡ sứt vỡ.

Như thế, các mầm cây và giò hoa, cánh lá mới vươn lên thẳng ngay, không bị xiên lệch, vẹo vọ. Bởi xiên lệch vẹo vọ là phạm phải một điều tối ky trong kỹ thuật tạo dáng thủy tiên. Hoặc như ở các nhà kinh doanh thủy tiên chuyên nghiệp, họ thường đặt những phên tre đan thành giàn, ngâm xăm xắp trong bể nước. Mỗi ô mắt phên sẽ thay cho công dụng giữ thăng bằng, cố định cho cụm hoa như ở trong bình, trong bát nhỏ, rất tiện cho việc thay nước hoa hàng loạt mỗi ngày. Lúc nào chuẩn bị đưa hoa ra chợ, mới nương nhẹ tay cho cụm hoa vào các bình bát. Tôi đã tận mắt trông thấy giàn dưỡng hoa đan bằng lưới tre hình ô vuông thả trên bể nước nông có đường dẫn nước vào ra của gia đình anh Nguyễn Văn Thanh ở làng Thanh Nhàn. Trong thời gian dưỡng thủy tiên chừng 25 đến 30 ngày, anh Thanh phải chăm thủy tiên như chăm con mọn:

- Hàng ngày phải thay nước mới và rửa sạch củ hoa, rễ cây, lá cây, mỗi ngày ít nhất một lần. Nếu trời nắng nóng thì rửa cây thay nước hai ba lần. Mệt lắm. Nhưng nếu lơ là một chút thôi là nhựa các vết cắt lại dễ làm thối nước, thối củ. Rồi mỗi ngày lại phải để ý sắp xếp lại lá, hoa và rễ sao cho khóm thủy tiên phát triển hài hòa, đẹp mắt.

Tuy nhiên, việc chăm sóc hoa trong giai đoạn này thật chẳng dễ dàng chút nào. Nhất là vào những năm gần đây, trong điều kiện thời tiết và môi trường Hà Nội có rất nhiều biến đổi bất lợi. Dân ta đi chợ mua hoa thủỷ tiên, khi hỏi đến giá cả, thường chê đắt rẻ, song ai đã từng tận mắt theo dõi những công việc của người làm hoa và cùng chia sẻ với họ bao bất trắc, gian nan của nghề hoa, mới cảm nhận rõ giá trị của mỗi dò hoa quý. Tháng chạp năm Đinh Sửu trước tết Mậu Dần 1998, thời tiết nước ta không thuận, mưa nắng thất thường, có buổi nồng nực hơn cả mùa hè. Môi trường và nguồn nước nhiều khu vực lại bị ô nhiễm nặng. Hàng chục nhà kinh doanh đã cầm chắc lỗ vốn bạc triệu. Riêng đợt thủy tiên mới ra giống của nhà anh Thanh ở làng Thanh Nhàn là có chút hứa hẹn cho triển vọng kha khá. Song chủ nhân của chúng cũng không giấu nổi nỗi lo âu, thấp thơm. Nhất là khi anh đã rót vào đợt thuỷ tiên ấy số vốn ban đầu vài chục triệu đồng. Đó là chưa kể tới các đợt hoa thí điểm hồi trước, khi được, khi mất, hồi anh Thanh mới bước vào nghề và Hà Nội mới gây dựng lại thú chơi thuỷ tiên.

Chừng vào khoảng tết ông Công, ông Táo, khi hơi xuân nồng nàn đã vây bọc khắp không gian, những giò thuỷ tiên sớm sẽ trổ hoa đợt đầu, đưa hương thơm thoang thoảng, nhẹ nhàng. Song mà vào ngày trước, những người chơi hoa thủy tiên sành điệu, cứ nhất định tìm cách hãm cho hoa nở đúng vào thời khắc giao thừa, mới cho là đúng phép. Bà Phúc Lâm Đỗ Thị Dung nhà ở phố Hàng Đồng cũ, là con cụ Ký Hanh, một viên chức dưới thời Pháp thuộc. Bà vẫn hãy còn nhớ cách thức thúc hoa và hãm hoa của cụ Ký Hanh khi xưa:

- Mỗi khi đến ngày 28, 29 giáp Tết Nguyên Đán mà nụ hoa coi vẻ còn se sắt, chưa có dáng sắp nở, thì phải lấy nước âm ấm thay luôn, để thúc nụ chóng mập. Còn nếu như thấy nụ hoa đã ra chiều muốn mở cánh, thì phải lấy chút lòng trắng trứng gà, phết một đôi lượt bên ngoài nụ, nhằm hãm cho hoa nở đúng lúc giao thừa. Thế mới gọi là đại cát cho năm mới.

Còn nếu như trong nhà không có người rảnh rỗi, hoặc là có người rảnh rỗi nhưng chẳng thành thục với nghệ thuật gọt tỉa thủỷ tiên, thì vào dịp giáp tết âm lịch, người ta sẽ tìm lên chợ hoa Cống Chéo - Hàng Lược. Nơi ấy, giữa một vườn đào quất, cây cảnh, hoa tươi rực rỡ muôn màu, những bình thủy tiên bé nhỏ, xinh xắn với vẻ đẹp khiêm nhường, duyên dáng, với hương thơm cao sang, độc đáo, luôn là điểm hấp dẫn bước chân của những người hâm mộ.

Những tụ điểm bán hoa thủy tiên mới nở rộ khoảng mươi lăm năm nay là chợ hoa Quảng An, chợ hoa Hoàng Hoa Thám, chợ hoa Vạn Phúc, và nhất là dọc đường phố Từ Hoa bên làng Nghi Tàm, một thủ phủ của thủy tiên Hà Nội.

Phần lớn khách chơi hoa thuy tiên vào dịp tết, thường là các cụ ông trí thức, văn nghệ sĩ cao tuổi. Có thể hiểu như là, họ đã từng trải qua biết bao thăng trầm, cũng như nếm trải biết bao hương vị đắng ngọt của cuộc sống, của nỗi buồn, niềm vui. Cái điểm dừng thủy tiên hoa, phải chăng là nơi ẩn chứa, nơi gửi gắm những điều tâm sự, những nỗi ước mong cao xa và thầm lắng khó nói thành lời ở cái tuổi ngoại tuổi tri thiên mệnh? Còn tôi, mỗi năm vẫn thường được cậu con trai đỡ đầu là giảng viên trường Đại học khoa học xã hội nhân văn đều đẳn đem biếu đôi bát thủy tiên, một bát dâng trên ban thờ, một bát trưng ở phòng khách. Thật ưng ý quá. Sáng mồng một tết năm nào cũng vậy, tôi thường mặc tấm áo dài mới chụp ảnh bên bình hoa thủy tiên rồi đưa FB chúc mừng họ hàng, bầu bạn gần xa.

Ngày xửa ngày xưa, Hà Nội từng có những kỳ thi hoa thủy tiên vào dịp đón xuân tại đền Bạch Mã và Ngọc Sơn cổ kính. Cụm hoa nào đoạt giải, được cả sắc hương lẫn dáng thế, sẽ được đưa lên kiệu rước trên phố Hà Nội cho bàn dân chiêm ngưỡng, tôn vinh.

Khi thủy tiên nở hoa, mỗi cụm hoa mang một dáng vẻ khác nhau theo lối đặt tên của các cụ xưa. Dáng phượng múa, dáng rồng bay, dáng hạc chầu, dáng tiên sa... Mỗi cụm hoa thực sự là một tác phẩm nghệ thuật mang dấu ấn độc đáo của bàn tay người yêu hoa, và là kết quả của nghệ thuật gọt tỉa thủy tiên khởi từ trước đó hàng tháng trời. Chính bởi vậy, người xưa mới ham thích thú chơi thuỷ tiên, thú chơi giàu sáng tạo và giàu tính thẩm mỹ, nghệ thuật. Ông Nguyễn Văn Chi, một chủ vườn hoa cảnh nổi danh ở làng Định Công chậm rãi:

- Các cụ ta xem thủy tiên khi nở hoa như một bộ mâm bạc chén vàng của nhà vua. Bình chọn một cụm thủy tiên đẹp, phải xét toàn diện. Lá phải xanh đều và uốn lượn theo hình thế nhịp nhàng chứ không thẳng đuồn đuỗn. Các dò hoa phải cao thấp hài hoà, chứ không đâm tua tủa ngang mặt nhau, rễ phải rậm, dài, mềm mại và trắng muốt, không bợn một nốt nâu ủng, không đan rối lẫn nhau, trông hệt như bộ râu của một lão ông đại thượng thọ. Thế mới là tuyệt hảo.

Việc ấy, ta cũng có thể hình dung lại qua câu chuyện của nhà văn Vũ Bằng in trong cuốn Mê Chữ của ông. Trong văn chương nghệ thuật, người Á Đông thường giữ quan niệm "Quý hồ tinh bất quý hồ đa". Trong chiếc bình pha lê trong suốt, cụm thủy tiên bé nhỏ lộ vẻ đẹp thơ ngây, trong trắng, dịu dàng, tựa như một bầy tiên vừa từ thượng giới bay xuống tắm mình trên dòng suối mát, giữa một cánh rừng cổ tích nguyên sơ.

Những năm đầu thế kỷ XXI, khi con đường ven hồ Tây chạy men làng Nghi Tàm được khai thông và đặt tên là phố Từ Hoa, thì người Hà Nội đã có cơ hội tìm lại những ngôi nhà của các nghệ nhân hoa cảnh nổi tiếng để đặt hoa thủy tiên đem về chơi Tết và đem đi biếu Tết. Nghệ nhân Nguyễn Văn Ninh, tức cụ Hai Ninh ở tuổi ngoại chín mươi, ngoài kỹ nghệ trồng địa lan và trà hoa nổi tiếng, đã kịp truyền lại cho các cháu nội kỹ nghệ tỉa hoa thủy tiên rất cầu kỳ, công phu, tạo nên những bình hoa duyên dáng, đẹp đẽ:

- Hoa phải là hoa đơn, cánh dõng dạc, nhuy phân minh. Hoa kép rối cánh, lại kém thơm, không mấy được chuộng. Lá thủy tiên cong cong hướng ra bên ngoài, lá thấp để tôn hoa cao. Hoa đan xen trên dưới hài hòà. Gọt củ lúc đầu mà sau được đúng như đoán định là không dễ đâu. Nhất thiết phải là dò hoa chớm nở đúng lúc giao thừa, mới thập phần hoàn hảo, toàn bích. Ngày trước, ở Hà Nội, thường có các cuộc thi hoa thủy tiên ở đền Bạch Mã trên phố Hàng Buồm và đền Ngọc Sơn giữa hồ Hoàn Kiếm. Hễ gia đình nào thắng giải ở hội thi hoa thủy tiên đền Ngọc Sơn hay đền Bạch Mã thì coi như đạt được niềm vinh hạnh hiếm có trong đời người. Họ thường tổ chức buổi rước hoa, khao giải linh đình lắm.

Vài mươi năm gần đây, thủy tiên đã hiện diện trên khắp các chợ hoa Hà Nội. Lọt giữa muôn hồng ngàn tía các loại hoa cảnh đông tây nam bắc, nước trong nước ngoài, những bình thủy tiên nhỏ bé, khiêm nhượng vẫn thu hút sự say mê, đắm đuối của những kẻ yêu những nét đẹp xưa cũ Hà Thành. Cụ bà phố cổ áo kép hoa tóc búi trễ khăn len quàng cổ ngắm đi ngắm lại bình thủy tiên hàm tiếu:

- Ông nhà tôi lúc còn sống yêu hoa thủy tiên lắm, toàn tự gọt hoa lấy. Nhưng ông mất lâu rồi. Năm nào tôi cũng mua một bình cúng trên ban thờ cho ông thỏa nguyện. Hoa mua ở chợ không đẹp bằng ông nhà tôi tự gọt tỉa, nhưng cũng gọi là cho có. Không thì cứ lâu nay, tại ngôi nhà cổ 87 Mã Mây đã hình thành Câu lạc bộ Hoa thủy tiên Hà Nội bao gồm hàng chục thành viên cả lớn tuổi lẫn nhỏ tuổi. Mọi người truyền cho nhau các thức chọn củ, tỉa hoa, chăm sóc hoa khá kỹ lưỡng. Có một lần tôi được mời lên ghi hình cùng Đài PT - TH Hà Nội trong chương trình Người Tràng An - Người Hà Nội tại nhà 87 Mã Mây. Tôi tình cờ được xem ngắm mấy mẫu hoa mà các thành viên trong CLB hiện trưng bày tại đó. Cảm quan ban đầu là các khóm hoa đều có hình thái ý tứ riêng rất điệu đà, duyên dáng, rất khác với các khóm thủy tiên bầy nhan nhản ngoài phố chợ, Thế rồi trên mạng xã hội, cũng xuất hiện nhiều bạn trẻ đam mê học hỏi cách gọt sửa thủy tiên, bất chấp nhiều kỳ thất bại ban đầu, củ chẳng ra củ, cây không ra cây. Có được mẫu hoa nào tạm ưng ý, các bạn ấy sẵn sàng chia sẻ chung vui với cộng đồng mạng. Tin chắc một ngày nào đó, các bạn sẽ thành công như ý với niềm đam mê nhiệt huyết, thật tâm.

Thế là một thú chơi cao sang vào dịp tết cổ truyền dân tộc đã và đang trở lại với người Hà Nội sau cái khoảng cách thời gian dằng dặc bằng cả mấy cuộc chiến tranh liên miên cộng lại, với biết bao đổi thay về thời cuộc trên đất nước ta.

Với mùi hương thơm ngát mà không nồng nã, ngạt ngào, quyến rũ mà sâu thẳm, kín đáo, dịu nhẹ mà chẳng nhạt nhoà, pha tạp, hương thủy tiên thật xứng là một thứ hương thanh cao, nồi trội trong thời khắc thiêng liêng của đất trời khi chuyển sang năm mới.

Trong không khí xum họp gia đình của ngày đầu xuân, hương thuỷ tiên lẫn trong làn khói hương trầm ấm áp, nồng đượm, hoà trong hương cam Canh, bưởi Diễn thơm thảo, ngọt ngào. Tất thảy, tạo nên một hương vị tết nhất cổ truyền đặc biệt Hà Nội, cho những kẻ xa quê khó cầm lòng khi tưởng đến.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội

Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội

"Hồi sinh nghề chạm bạc ở Hà Nội" - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chạm bạc, đó là nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khá nổi tiếng ở Hà Nội. Vào những năm thuộc thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ trước, khi thị trường Đông Âu còn rộng mở, nghề chạm bạc phát triển thật rấm rộ. Các lớp học nghề liên tục được mở ra đào tạo được hàng trăm thợ chạm mới phục vụ cho các chiến dịch làm hàng xuất khẩu. Nhưng khi những chến dịch ổ ạt ấy qua đi một cách mau chóng, thị trường Đông Âu tan rã, thì hầu hết những người thợ được đào tạo theo lối cấp tốc ấy cứ theo năm tháng mà rơi rụng dần.

Ngô Mai Hương. Cản nhà cũ khuất sâu đường như biệt lập, cách xa sự đông đúc, sầm uất của dãy phố Bạch Mai. Nhưng khách cũng có thể dễ dàng tìm thấy nó nhờ sự dẫn dắt của những âm thanh nhà nghề quen thuộc và đều đặn hàng ngày. Ấy là tiếng đục chạm chí chát, lách cách, rộn rã.

Xưa nay, thế giới của những người thợ chạm bạc có lẽ chỉ quanh quẩn không xa khuôn bàn chạm rộng không đầy một thước vuông. Vậy mà từ đó, cả trời đất, núi non, cỏ hoa, chim thú, Thần Phật, dưới bàn tay người, đã hiển hiện, sống động và trường tồn dường như là vĩnh viễn. Nhìn thì hấp dẫn, nhưng người ngoài nghề khó mà học theo, nói chi đến việc đeo đuổi nghề đến suốt đời. Nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh bộc lộ đôi điều:

- Trong cuộc đời làm nghề hơn năm mươi năm qua, tôi cũng đã góp công đào tạo được vài ba lớp thợ trẻ. Tất cả cũng độ ba bốn chục người. Nhưng mà bây giờ chẳng còn mấy ai đậu lại với nghề.

Các cháu chúng chuyển hết sang nghề hàng vàng hay là một số nghề khác dễ phát tài hơn là nghề thợ chạm bạc. Nghề này ai phải nặng lòng lắm, mới trụ được, tựa như là người nghệ sĩ ấy, cứ say nghề là theo thôi, biết là nghèo mà cũng đành chịu.

Cũng sống trong một con ngõ nhỏ lọt giữa phố Bạch Mai, ngõ Giếng Hậu Khuông, cách không xa ngôi nhà của nghệ nhân Nguyễn Hữu Chỉnh, người thợ đôi bàn tay vàng Nguyễn Ngọc Nghiên hàng ngày vẫn bình thản và lặng lẽ ngồi bên chiếc bàn nghề cũ kỹ, từ tốn truyền nghề cho đứa con út và một cậu cháu gọi bằng bác. Vẫn là những tràng tiếng đục chạm vang lên rỉ rả, đều đặn như một điệu nhạc lúc vui, lúc buồn.

Chạm bạc, đó là nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống khá nổi tiếng ở Hà Nội. Vào những năm thuộc thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ XX, khi thị trường Đông Âu còn rộng mở, nghề chạm bạc phát triển thật rầm rộ. Các lớp học nghề liên tục được mở ra đào tạo được hàng trăm thợ chạm mới phục vụ cho các chiến dịch làm hàng xuất khẩu. Nhưng khi những chến dịch ồ ạt ấy qua đi một cách mau chóng, thị trường Đông Âu tan rã, thì hầu hết những người thợ được đào tạo theo lối cấp tốc ấy cứ theo năm tháng mà rơi rụng dần. Âu cũng là thuận theo quy luật của cuộc sống. Nhưng điều đó không khỏi đem lại cho những người thầy một nỗi buồn thấm thía.

undefined
Nghề chạm bạc ở Hà Nội.

Song bao giờ cũng vậy, trong cái rủi lại có cái may. Số ít những người thợ nghề còn trụ lại, hoặc tiếp tục học nghề trong thời kỳ khó khăn nhất, lại chính là số con cháu, họ hàng thân thuộc của gia đình. Một lần nữa, phương pháp dậy nghề truyền thồng theo lối cha truyền con nối, lại khẳng định ưu thế khó phủ nhận trong thực tế. Mặc dù không phải hầu hết những đứa con của các gia đình thợ chạm bạc ở Hà Nội đều theo nghề cha ông. Số theo nghề cũng thật ít ỏi, mỗi nhà chỉ một vài người. Nhưng đa số họ đều là những người thợ giỏi đầy triển vọng.

Trong giới thợ chạm bạc ở Hà Nội, ông Nghiên nồi tiếng về thể loại tranh chân dung. Và chạm tranh chân dung cũng chính là thể loại khó nhất trong nghề. Chính bức chạm nổi Bác Hồ ngồi đọc báo ở Phủ Chủ tịch đã đem lại cho ông tấm huy chương vàng trong triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống Việt Nam năm 1997. Và chính bức chạm đã trở thành một mẫu hình thị phạm quý giá, khi ông truyền lại những bí quyết của cách thức chạm bạc thể loại chân dung cho lớp trẻ.

Như những người thợ thức thời, ông Nghiên cũng không quá nghiêm ngặt với các lễ lối cũ, cách thức hành nghề cũ. Ông trông đợi rất nhiều vào khả năng sáng tạo của lứa thợ trẻ. Đó chính là sức sống mới của nghề truyền thống cha ông. Bởi vậy, ông chỉ quan tâm nhất đến việc phổ biến những kiến thức cơ bản ban đầu của nghề chạm bạc cho con và cháu, và rất tôn trọng ý tưởng cải biến những mẫu mã mới của chúng. Anh Nguyễn Ngọc Tú, con trai ông Nghiên ngồi bên khuôn bàn chạm bạc với dáng người thanh mảnh và nụ cười rất tươi tắn, hiền hậu trên gương mặt thanh tú:

- Các mẫu mã hoa lá ngày xưa của các cụ rất đẹp, rất nghiêm cẩn. Nhưng bây giờ nhiều khách hàng thích các mẫu mã mới, hoa lá thoáng đạt hơn. Nên nhiều khi mình phải cải biến đi một chút thì hàng mới dễ bán. Như mẫu hoa lan tây cánh dài mảnh và dáng bay thoát như thế này chẳng hạn.

Có một thực tế là cuộc sống của đa phần thợ thủ công mỹ nghệ ở Hà Nội, kể cả thợ mỹ nghệ kim hoàn, đều chưa thật khá giả. Cũng sống trong một con ngõ nhỏ khuất khúc giữa phố Khâm Thiên, ngôi nhà kiêm xưởng nghề của nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng thật là chật chội. Ông là một người đồng nghiệp giàu tâm huyết của nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh và người thợ đôi bàn tay vàng Nguyễn Ngọc Nghiên. Dòng chữ nổi theo lối đại tự mà ông thờ trong ngôi nhà gồm ba chữ: Đức Bản Giã. Ấy là cách viết tắt của một câu châm ngôn cổ: Đức giả bản giá: Nhà lấy đức làm gốc.

Theo nghiệp thợ, lấy công làm lãi, lấy tín làm đầu, trong làng thợ bạc ở Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng là người nhận được rất nhiều hợp đồng và đơn đặt hàng của khách trong và ngoài nước. Công thơ chính của xưởng thợ hiện nay cũng chỉ tương đương như lương công nhân lành nghề trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng chỉ có trong tay chừng hơn chục thợ thuyền, chủ yếu là con cháu, họ hàng, lại thêm điều kiện nhà xưởng chật chội, ông thường không đáp ứng đủ yêu cầu của khách hàng. Có một số công ty nước ngoài muốn đầu tư cho ông mở rộng quy mô sản suất.

Song ông tự lượng sức mình, sức thợ, nên đành từ chối. Thực ra là ông đang trông đợi rất nhiều ở thời kỳ tới, khi người con trai út của ông thực sự trưởng thành một cách vững vàng.

Như rất nhiều gia đình thợ chạm bạc ở Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng cũng chỉ có được một người con duy nhất theo nghề tổ tiên: Anh Nguyễn Ngọc Anh. Người thấp đậm, đôi mắt đen sẩm, năm nay Ngọc Anh mới 26 tuổi nhưng đã có gần hai mươi năm theo cha từ những nét đục chạm vụng dại đầu tiên, kể từ khi anh hãy còn là một cậu bé học trò lớp vỡ lòng, cầm chiếc búa nhỏ xíu còn chưa vững.

Bây giờ, có thể anh chưa đủ khả năng để thay cha đảm đương quản lý cả một xưởng thợ mỹ nghệ chạm bạc danh tiếng. Nhưng dường như anh đã bắt đầu thổi một luồng sinh khí mới cho xưởng nghề gia đình bằng những gì mà anh thâu nhận được từ luồng gió mạnh mẽ của thời đại. Đó cũng là điều mà người cha hằng đang mong đợi ở đứa con yêu. Anh Nguyễn Ngọc Anh tâm sự cùng chúng tôi bên chiếc máy vi tính, trong lúc anh đang hoàn thiện nốt mẫu trang trí mặt trống đồng trên một sản phẩm mới.
- Mình là con thì phải theo nghề cha thôi. Có điều là khi xưa, các cụ toàn vẽ mẫu bằng tay, có chỗ không đều đặn, sắc nét như ý muốn. Bây giờ thiết kế mẫu trên máy vi tính, nên có thể sửa sang hoàn thiện đến lúc nào thật ưng ý thì mới đem áp mẫu trên sản phẩm, đỡ tốn công sức rất nhiều.

"Có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa". Nhưng với tâm nhìn nhận, sức suy gẫm của một nghệ nhân bậc thầy ngành chạm bạc ở Hà Nội, người cha của anh không khỏi còn những điều lo lắng, trăn trở. Những lo lắng, trăn trở không chỉ cho nghiệp nhà, mà còn xa hơn thế và rộng hơn thế và sâu hơn thế.

Cho dù máy móc hiện đại như thế nào đi chăng nữa, thì các mẫu mã hoa văn cũng vẫn phải giữ được dáng nét và đặc trưng mỹ thuật cổ truyền dân gian trong các sản phẩm. Và mỗi sản phẩm làm ra đều phải mang dấu ấn bàn tay cá nhân người thợ. Nếu như không giữ được như vậy, thì sẽ chẳng ai còn tìm đến với thủ công mỹ nghệ dân tộc.

Tuổi ngoại bẩy mươi, Nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh ở Ngõ Mai Hương vừa có thêm một niềm vui mới. Có một cô học trò do ông dạy dỗ từ nét đục chạm đầu tiên sau năm năm trời, nay đã thành thục trong nghề. Đó chính là cô con dâu út của ông. Nhìn bức chạm bạc mới đang trong giai đoạn hoàn thiện mà đã hé lộ vẻ rực rỡ, sống động của hoa lá, cỏ cây dưới bàn tay cô thợ trẻ, người cha chồng không giấu nổi niềm sung sướng và tự hào thầm kín.

Thêm một người thợ, hơn nữa lại là một người thợ giỏi nghề, nghệ nhân Nguyễn Đức Chỉnh còn có thể trông đợi thật nhiều ở nghiệp nhà và nghiệp tổ mai sau. Có thể lắm chứ, bởi bắt đầu từ năm chuyển giao sang thế kỷ mới, cùng với một số ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống của Hà Nội, nghề chạm bạc đang trên đà phục hồi và khởi sắc rõ rệt. Đang có hàng trăm gia đình thợ nghề giữ nhịp chạm quanh năm. Mở rộng và làm cho thông thoáng đầu ra của hàng hoa, đó có lẽ là điều trông chờ lớn nhất ở chính quyền thành phố và ngành tiểu thủ công mỹ nghệ Hà Nội của gia đình các nghệ nhân chạm bạc và các làng nghề truyền thống nói chung.

Ngày ngày, trong căn nhà nhỏ ở ngõ Mai Hương, tiếng đục chạm vẫn lách cách, râm ran. Nhưng liệu điệu nhạc nghề ấy, có thể hấp dẫn và thu hút lũ cháu nhỏ của ông? Câu hỏi đó còn chờ ở ngày mai.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Bảo tồn thú chơi địa lan giống cổ

Bảo tồn thú chơi địa lan giống cổ

BẢO TỒN THÚ CHƠI ĐỊA LAN GIỐNG CỔ - là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, năng mai phơ phất non tơ, những đóá lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa toả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.

Ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Chi và bà Triệu Thị Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai nằm trong một khu vườn quanh năm rợp bóng xanh. Mùa hạ, ngõ vào nhà thơm ngát hương hoàng lan, mùa thu, dìu dịu hương quỳnh, hương quế. Hương hoa từ trên cao theo gió sớm, sương đêm, buông tỏả xuống mặt đất hiền hòa, tạo nên một bầu không gian thanh nhã và mộng mơ.

Nhưng qua ba tháng mùa đông khô cằn, khi những màn mưa xuân phơ phất vương bay trong trời đất, ngôi nhà của ông Chi lại chìm ngập trong một bầu hương thơm nồng nàn mà rất đỗi thanh tao. Ấy chính là hương thơm của hàng trăm chậu địa lan đang kỳ trổ hoa. Ông Chi mê đắm vì lan đã bao năm rồi không nhớ nổi: "Mỗi giống địa lan nó lại có dáng lá vẻ hoa khác nhau, hương thơm cũng thế. Hoàng vũ thơm ngọt, Mặc biên thơm ngát, Cẩm tố thơm dịu, Hoàng điểm thơm thanh... Chỉ nghe gió thổi từ xa xa đã biết khóm lan nào đang tỏa hương, Người cứ như đang bay lên mây ấy chứ".

Trong nền văn hóa cổ truyền các dân tộc Á Đông, sự vần chuyển của một năm thời gian vũ trụ được mã hóa bằng hình tượng các loài hoa quý giá và đặc sắc của bốn mùa: Xuân lan - Hạ liên - Thu cúc - Đông mai. Hoa lan mùa xuân, hoa sen mùa hạ, hoa cúc mùa thu, hoa mai mùa đông.

undefined
Hoa địa lan có nguồn gốc đầu tiên từ vùng Tây Nam Trung Quốc

Hoa lan, tự xa xưa đã được các bậc tiền nhân liệt vào hàng "vương giả chi hương" có lẽ không chỉ bởi chúng vốn được lưu truyền trong chốn cung vua, phủ chúa cao ngạo, thâm nghiêm, mà chính là bởi chúng mang thứ hương thơm không loài hoa nào trên thế gian sánh nổi. Tuy nhiên, ông cha ta tự xưa chỉ ngưỡng vọng các loài địa lan tức là các loại hoa được trồng trong đất, do tự tay người chăm sóc. Còn đối với các loài phong lan, tuy muôn hình vạn trạng, thắm sắc, đượm hương, thì cũng vẫn chỉ là cây rừng hoa núi, hoang sơ, lạ lẫm. Người ta yêu địa lan không chỉ bởi sắc đẹp và hương thơm của chúng, mà còn bởi vì, chúng là những tác phẩm nghệ thuật phụ thuộc vào chính bàn tay kinh nghiệm và sự sáng tạo của những người yêu hoa.

Vậy mà, trong vòng nửa thế kỷ qua, người Hà Nội chỉ loáng thoáng nghe nhắc đến hoa lan qua câu tục ngữ: "Làm chúa chơi lan, làm quan chơi trà" hoặc là qua áng văn chương tuyệt mỹ của nhà văn người Hà Nội gốc, nổi tiếng hào hoa, lịch lãm Nguyễn Tuân:

"Vang bóng một thời". Trong những câu chữ được gọt giũa cầu kỳ đến mức điêu luyện ấy, vẫn đau đáu nỗi niềm của một kẻ nặng lòng hoài cổ, đang thả hồn chìm đắm trong những dòng hồi ức lung linh, kỳ ảo, nhớ về vẻ đẹp của thời quá vãng xa xôi tưởng sẽ không bao giờ sống dậy, chỉ còn lại đôi ánh hào quang mờ dần trong niềm tiếc nối khôn nguôi.

Thế rồi, khi nhắc tới khái niệm dân dã như ngọc lan, hoàng lan và sau này, khái niệm đó được làm giàu thêm bởi trăm loài phong lan hoang dã cùng những giống hoa lan được nuôi trồng theo phương pháp công nghiệp hiện đại thì dường như không có tên tuổi bất kỳ một loài hoa địa lan cổ truyền nào lọt vào trong trí não những đứa trẻ Hà Nội sinh ra ở cái thời gian khó dằng dặc ấy.

Thì bỗng đâu, cũng thầm lặng, nhẹ nhàng như là trong khoảnh khắc lìa xa năm xưa, vào một sớm đầu xuân mới, dưới làn nắng nhẹ vương tơ, thấp thoáng hiện lên những dáng vẻ, những sắc màu như lạ như quen. Lan Hoàng Vũ như cơn mưa màu cốm non, lan Hoàng Điểm hoa nâu chấm vàng như gấm thêu, lan Cẩm Tố hanh vàng, cành vươn, cánh dài thon thả, thanh thoát như đôi cánh tay vũ nữ vút bay trong điệu khúc thần tiên.

Và người Hà Nội, cũng như chợt tỉnh giấc mơ, mừng rỡ đón chào những nàng tiên lan, những nàng tiên chỉ hiện hình trên thế gian, dưới một bầu trời bình yên, sán lạn, và chỉ khoe hương sắc bên những con người không mấy còn cay cực, vật vã bởi cuộc mưu sinh khốn khó. Hà Nội trong những năm cuối thế kỷ XX, dường như đã thoáng hiện dáng vẻ của một chốn địa đàng sơ khởi mà bao lớp người chúng ta từng mơ ước

Và cứ như thể đã quen biết tự trăm năm, người Hà Nội đã không lấy làm lạ lẫm khi gọi tên hàng chục hàng trăm loài địa lan quý hiếm đang tụ hội trở về đất kinh kỳ ngàn tuổi. Nào là Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Thanh Trường, Ngân Biên, Mạc Biên, Cẩm Tố, Hoàng Vũ, Hoàng Điểm, Tiểu Kiều, Đại Kiều... Những tên hoa cao sang, mỹ lệ đến thế mà lạ không, tưởng như ta đã từng biết đến trong những giấc mơ xa.

Nghe người ta nói, thì hoa lan có tới vài ba trăm loài, với hàng ngàn cá thể khác nhau. Song những dòng lan lưu truyền tại Hà Nội tương truyền có nguồn gốc từ hoàng thành, vương phủ, nên chúng mang hương thơm quý giá hơn hẳn địa lan ở các vùng miền khác trên đất nước. Bởi thế, chúng được giới chơi lan mến chuộng tha thiết.

Cho đến bây giờ, vườn cảnh nhà nghệ nhân Lê Quyết Bội tại làng Nghi Tàm, bên bờ hồ Tây cũng chỉ có dăm bẩy chậu lan bầy rải rác quanh bể nước non bộ trước sân nhà. Lão nghệ nhân, tóc bạc trắng, thong thả cầm chiếc bình đồng nhỏ, khẽ khàng tưới nước vào từng chậu lan. Ngày xửa ngày xưa, cả một dải đất rộng lớn bên hồ vốn là thủỷ thổ của các loài địa lan cổ truyền...

Bằng một giọng nói trầm trầm, nghệ nhân đà đận kể: Lan là một loài cây rất kỹ kén đất. Vào mùa hanh khô, người ta tát ao, vét bùn. Gạt đi lớp bùn hoa trên mặt, người ta xắn lớp bùn thứ hai đem phơi khô trên sân nắng. Chừng độ ba bốn, thậm chí cho tới sáu tháng sau, khi bùn khô nẻ, hết sạch tạp chất, sâu bọ, người ta mới đem đập vỡ, sàng lọc, để đưa lên chậu trồng lan. Bởi vì rễ lan ưa thoáng khí và thoát nước.

Nghệ nhân Nguyễn Luân, một nhà làm hoa chuyên nghiệp của làng Nghi Tàm lúc nào cũng tha thiết với địa lan giống cổ:

- Người xưa truyền lại rằng, lan cũng như trà, tựa như các nàng phi tần, quận chúa, tiểu thư khuê các, hiếm khi lộ diện bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, sỗ sàng. Lan thường quen ẩn mình dưới tán lá rợp hay giàn thưa che nắng, như người đẹp núp bóng quân vương mà khoe hương sắc.

Chuyện xưa kể lại rằng, những khóm hoa trong cung vua phủ chúa sở dĩ tốt tươi, ấy là bởi hàng ngày chúng được các cung tần mỹ nữ dốc công chăm sóc. Chờ khi lan trổ hoa, các nàng sẽ có cơ hội đón rước đấng quân vương đến ngự lãm. Do chậm sinh sôi, nảy nở, nên lan phải được chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo và kỹ lưỡng.

Tuy nhiên, do là thứ cây khó tính, nên việc chăm sóc cũng phải vừa mức, tránh sự bất cập cũng như thái quá. Phân bón cho lan cũng không thể tùỳ tiện, phải ngâm ốc và cá vụn trong nước khoảng độ nửa năm cho hoai hết mùi hôi, rồi mới pha loãng mà tưới cho lan.

Chớ bao giờ nghĩ tới việc có thể dùng phân hóá học hay thuốc kích thích sinh trưởng. Thế thì thà trồng rau mà hái lá nấu canh.

Nghệ nhân Nguyễn Ninh ở làng Nghi Tàm, người sở hữu một vườn trà lan nức tiếng trong giới chơi hoa xứ Bắc với những khóm lan đắt giá tới hàng chục triệu đồng là một bậc cao thủ trong kỹ nghệ trồng và chăm sóc những giống địa lan giống cổ được cha ông truyền lại:

- Khách đến tham quan thì nhiều chứ mua bán thì không mấy.

Được giá thì vợ chồng tôi bán, không thì lại để chơi xuân. Tiền cũng quý nhưng lan còn quý hơn ấy chứ. Bán đi gây lại chả dễ trong cái thời tiết khí hậu ô nhiễm thế này. Lan giờ đây dễ bị nấm bệnh. Chữa bệnh cho lan có khi còn khó hơn chữa bệnh cho người. Lá lan hễ cứ xuất hiện một vài chấm đen là kém đi vẻ đẹp toàn bích. Người chơi mất hứng luôn. Một nhánh lan lụi đi thì ruột xót như muối vậy.

Mặc dù hoa lan mỗi năm chỉ nở có một lần, song kỳ hoa kéo dài chừng vài ba tháng, như thế, hương sắc của nó đã kịp trở thành niềm thân yêu quấn quýt khó rời. Hương hoa lại tuỳ theo thời khắc hay hướng gió mà tỏa lan gần xa, lúc thắm thiết, sực nức, khi lại nhạt nhòà xa xôi, như mơ như thực, như có như không. Bởi vậy càng khiến cho kẻ yêu hoa thêm say đắm, chờ đợi, ngóng trông.

Còn nhớ trong khúc Tỳ Bà Hành nồi tiếng, khi cô gái đẹp bến Tầm Dương buông tay đàn ngưng lặng trên mặt sông đêm, nhà thơ Đường Bạch Cư Dị đã thốt thành lời:

Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

(Lúc này lặng tiếng còn hơn cất tiếng)

Cái khoảnh khắc lan ngừng tỏả hương giữa hai đợt gió, cũng có thể ví như thế chăng?

Hoa lan có nhiều chủng loại. Mỗi loại thường chọn mùa trổ bông khác nhau. Có thứ lan nở mùa xuân, có thứ lan nở mùa hạ, song có thứ lan nở về mùa thu hay mùa đông. Lại có thứ lan nở cả bốn mùa. Các cụ ta khó tính, giới sĩ phu Bắc Hà vốn thế, vẫn chê lan tứ thời là thứ dễ dãi, rẻ tiền, như những kẻ xu phụ tiểu nhân ngoài xã hội, không biết giữ phẩm giá tư cách trong sự đổi thay của thời thế. Nói như vậy, quả là cũng oan uổng cho hoa. Song đã gọi là nghệ thuật, là thú chơi, có mấy khi và có mấy ai lại không thiên lệch một đôi phần.

Trong cái thời khắc khởi đầu năm mới, đất trời thanh sạch, nhẹ nhàng, nắng mai phơ phất non tơ, những đóa lan xuân hé nở, vươn lên những cánh nhỏ mềm như lụa nõn, khoe sắc màu thanh tân trang nhã. Làn gió đông dịu dàng chợt đến chợt đi, mang hương hoa tỏả lan, phảng phất khắp không gian. Lòng người chợt xốn xang, xao xuyến lạ lùng. Và bỗng dưng người ta nảy sinh cái ước muốn được trao gửi, được sẻ chia tâm tình.

Hàng năm, vào một ngày xuân đẹp trời, lan trong vườn nở rộ, nhà chủ thường mời gọi dăm ba người bạn chí cốt, thuộc diện “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” đến chơi nhà. Khách gần, khách xa, đều không thể bỏ lỡ dịp may hiếm có trong năm.

Người ta ví, chăm được một chậu lan quý cũng tựa như chinh phục được một cô gái đẹp. Cuộc chinh phục càng khó khăn thì chiến công càng vẻ vang, và kẻ chiến thắng càng thêm phấn khích, tự hào.

Có lẽ bởi vậy mà trong giới chơi hoa, mới nảy sinh thú vui trưng hoa, thưởng hoa, bình hoa. Để mà ở đó, người ta có dịp kể lể, tán tụng, so sánh, phẩm bình về vẻ đẹp và hương thơm của từng khóm lá, từng dò hoa. Xưa nay, trong muôn loài hoa cảnh, chỉ có hoa lan, thứ hoa "vương giả chi hương" mới xứng đáng được chủ hoa mở tiệc đón mừng, khao đãi. Thành ngữ "bữa tiệc thưởng hoa" ra đời từ đó cũng nên.

Thực ra, cái đáng quý nhất ở các loài địa lan chính là hương thơm của chúng. Tự xưa, đối với dân các nước Á Đông thì ngay cả trong các khái niệm thuộc về mỹ cảm, cũng nặng chất duy lý. Tuy hướng đến sự toàn bích, tận thiện, toàn mỹ, song nếu xét nét riêng, thì cái sắc cái hình vẫn không thể sánh nổi cái thanh, cái hương.

Bởi thế, tuy hoa trà, hoa mẫu đơn được bầu là chúa các loài hoa mà các bậc tiền nhân, vẫn coi chúng là những thứ hữu sắc vô hương, chẳng coi trọng tôn thờ như đối với các loài hoa mang hương thơm như thuy tiên, địa lan.

Tuy mỗi giống địa lan đều có hương thơm đặc trưng riêng khó lẫn, nhưng tựu trung hương thơm của hoa lan rất dịu dàng và thanh tao, nhẹ nhõm và tinh khiết. Lại nói, trong cuốn truyện vang bóng một thời, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng miêu tả sự tinh tế đến mức quá kỳ cầu, sự sang trọng đến mức quá cao xa của thú chơi hoa lan, nhất là khi các bậc tiền nhân tố chức một bữa tiệc thưởng hoa.

Chờ khi trong vườn có đôi dò lan hé nở, nhà chủ thường lấy mươi tờ giấy tốt, làm khung nứa mỏng, nương theo chiều cao của ngọn hoa mà phất đôi ba chiếc lồng bàn nhẹ. Thế rồi dâu gai trong nhà phải rửa sạch từng viên đá cuội trắng tròn, đem tẩm kẹo mạch nha nấu từ mầm lúa nếp, xếp vào những đĩa nhỏ, bầy quanh gốc lan, đậy lồng bàn cho kín. Sau một ngày đêm ủ hương lan như thế, nhà chủ mới mở tiệc trà hay rượu, mời đôi ba người bạn tri âm tri kỉ đến thưởng hoa, và ngâm vịnh thơ phú, bình luận văn chương.

Chao ôi! Cái thú chơi cao sang đến vậy, thì làm sao có thể tồn tại nổi trong mấy mươi năm chiến tranh giặc giã, Tây Tàu nhộn nhạo, mới cũ bất phân. Nhà văn kiêm dịch giả Nguyễn Hà, cộng tác viên thân tín mảng văn hóa Hà Nội cho các báo đài thủ đô có lúc rất ngậm ngùi:

- Mấy chục năm chiến tranh bao cấp Hà Nội khổ quá. Người dân lo ăn chả đủ nói gì đến thú chơi. Bao nhiêu thứ hoa cảnh, chim chóc cứ lay lắt rồi tàn lụi mất mát dần. Tiếc sao mà tiếc! Dẫu bây giờ có khôi phục lại cũng sẽ chuệch choạc lắm. Vì các cụ cao niên tinh sành đã theo nhau trước sau đi xa hết. Sách vở thì chả có mà dẫn truyền.

Vậy mà chỉ chừng sau mươi năm khi chiến tranh kết thúc, non sông thống nhất cuộc sống trở lại thanh bình no ấm, thì theo đó, thú chơi hoa lan cũng như thú chơi hoa cảnh chim cá quý hiếm như thủỷ tiên, trà hoa, hoạ mi, chim yến, đã phục hồi một cách nhanh chóng.

Gần đây, giới yêu hoa ở Hà Nội gồm các bậc văn nhân, trí giả, nghệ nhân cây cảnh, các bậc cao niền và cả những người trẻ tuổi, đã dần dần nhóm họp thành những hội chơi nhỏ. Họ thường đi lại thăm thú vườn tược hoa cảnh lẫn nhau, bàn bạc hỏi nhau cách thức chọn giống, chăm sóc phòng bệnh cho hoa, tìm tòi sưu tập thêm những giống hoa lan quý hiếm, mới lạ. Và họ coi đó là niềm vui đích thực, là những khoảng thư giãn cần thiết, là sự dinh dưỡng tinh thần hữu ích trong cuộc sống còn bộn bề lo âu vất vả hôm nay.

Gia đình ông bà Chi - Thái ở làng Định Công, quận Hoàng Mai cứ mỗi mùa hoa nở lại mở tiệc khao đãi đôi lần. Khách gần khách xa nườm nượp kéo đến. Văn nhân, nghệ sĩ, thương gia đều hiện diện.

Có các cụ cao niên trên phố cổ, lại thêm các chàng thanh niên nông dân mới vào nghề trồng lan. Xem hoa, ngắm lá, thưởng hương, trầm trồ, bàn luận sôi nổi. Cụ Đặng Trường Lâm tuổi ngoại bẩy mươi, nhà ở phố Nguyễn Trường Tộ, râu tóc bạc trắng nhưng đôi mắt vẫn rất tinh anh, giọng nói sang sảng:

- Trên phố bây giờ làm gì ai có nổi khu vườn lan trà rộng lớn như thế này. Cũng khó ai sưu tập đủ hầu hết các giống địa lan cổ như nhà ông Chi đây. Tôi thích nhất chậu lan Hoàng điểm này. Hoa như gấm thêu, lá xanh toàn bích không một nốt đen vết xước nào. Hoa này còn chơi hằng tháng nữa cũng chưa tàn.

Ông Nguyễn Văn Hùng, kỹ sư trồng trọt của sở nông nghiệp Hà Nội cùng mấy cậu thanh niên trẻ xúm xít quanh khóm lan Ngân biên trổ hoa nâu phớt ánh vàng thâm trầm, quý phái:

- Quanh năm ông bà Chi - Thái chăm chút, bón tưới, phòng bệnh rất vất vả. Nhưng khi hoa nở khắp vườn lại mời gọi anh em đến thưởng lan, chia vui. Mọi người học thêm được ở ông bà nhiều kinh nghiệm nhân giống, chăm sóc, đánh giá lan rất quý giá. Chậu Ngân biên này chẳng hạn, hiếm lắm đấy, lá nó xanh trong lòng mà viền hai viền trắng hai bên, rất điệu đà.

Nghệ nhân Nguyễn Luân, một trong ba nghệ nhân địa lan giống cổ tại làng Nghi Tàm ở tuổi ngoại tám mươi vẫn lưu giữ bên hiên nhà mấy khóm lan quý Hoàng Vũ, Thanh Trường, Mạc Biên:

- Tôi chỉ chơi lan giống cổ truyền, tự nhân giống, tự chăm bón.

Nhưng tôi già yếu rồi nên cũng chả có sức được như xưa. Mươi năm nay bên Trung Quốc người ta mang giống lan của mình về bên ấy nhân ra trong phòng thí nghiệm rồi đem trở về Việt Nam bán nhiều lắm, giá rất rẻ. Nhưng lan đó hoa mảnh, sắc nhạt mà mùi hương lại nhạt nhòa, chỉ chơi được một mùa rồi tàn lụi dẫn. Sao bằng hoa bên ta được.

Vườn lan của nhà anh Nguyễn Vinh Dũng ở làng Nhật Tân cũng là một địa điểm đầy sức thu hút giới chơi lan ở Hà Nội và cả các tỉnh ngoài Bắc, trong Nam. Anh chị có một lối chơi lan rất cao ngạo. Nếu không gặp được khách mua đúng ý, không đáng chỗ trao gửi những đứa con yêu dấu, anh chị Dũng thà để lại vườn, mỗi tuần cắt vài chục giò trưng trong chiếc bình lớn, khiến không gian trong nhà ngoài vườn đều thơm nức như trong động tiên.

Một người cùng thế hệ chơi lan với anh Dũng Nhật Tân, thế hệ ngõ hầu có thể tiếp nối thế hệ chơi lan lão niên của Hà Nội như cụ Ninh, cụ Bội, cụ Luân, ông Chi, đó chính là vua lan Trần Tuấn Anh ở Đình Thôn, Nam Từ Liêm. Trong khuôn viên vườn lan rộng hàng nghìn thước vuông mát rượi luôn đan cài hai ba tầng hoa cao thấp. Hàng nghìn khóm phong lan, địa lan, thạch lan mùa nào cũng ngập tràn màu sắc. Ban đầu khi bước chân vào thú chơi lan,

Tuấn Anh nghiêng về phong lan, thạch lan. Trong đó có tổi 5 loại lan mà anh kỳ công sưu tập từ các miền rừng sâu núi thẳm khắp đất nước và đã được các nhà nghiên cứu lan trên thế giới đặt tên là Lan Tuấn Anh. Sau dần, qua thời gian, các giống hoa địa lan giống cổ Hà Nội vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh cũng đã chinh phục Tuấn Anh từ vẻ đẹp thanh tao và hương thơm huyền diệu của chúng. Hơn thế, thú chơi địa lan giống cổ còn chinh phục Trần Tuấn Anh bằng ý nghĩa tinh thần cao sang lịch lãm của văn hóa cổ truyền người kinh kỳ Thăng Long Hà Nội.

Đã lâu lắm rồi, kể từ thời đi thăm vườn lan của nghệ nhân Lê Quyết Bội trên Nghi Tàm từ vài mươi năm trước cho đến gần đây, tôi mới được gặp lại một vài cụm lan Thanh Ngọc vô cùng quý hiếm tại vườn lan Trần Tuấn Anh. Anh đang cùng những người bạn cộng sự đêm ngày cần mẫn nhân lên giống địa lan quý hiếm ấy. Tuy nhiên không phải qua vài ba năm mà đã được như ý. Mặc dù giá mỗi nhánh lan thanh ngọc trên thị trường hiện nay lên đến vài ba triệu đồng thì các chủ hoa cũng chả thể làm sao cho nó phát triển nhanh như các loại lan nhân giống trong phòng thí nghiệm để trở thành lan thương mại đại trà trên thị trường. Cái khó và cái quý lại là ở chỗ chậm chạp khác thường của địa lan giống cổ.

Tuấn Anh mê lan đến thành giai thoại trong làng hoa. Mê đến nỗi lấy cô vợ nào thì cô vợ ấy cũng đều mà bỏ đi vì không chịu nồi cảnh anh chồng chăm lan hơn chăm vợ, yêu lan hơn yêu vợ. Tam tứ phen rồi đó chứ không phải ít. Muốn truyền đam mê hoa lan cho các con mà chúng lại thờ ơ, bỏ bễ. Đứa sang Mỹ sinh sống đã đành, đứa ở lại Việt Nam cũng thế nốt. Rốt cuộc là chỉ còn có mình Tuấn Anh ở lại giữa vườn lan với những người giúp việc xa lạ và một bầy chó dễ đến vài chục con ngày đêm sủa nhăng nhẳng canh vườn lan quý. Vườn lan Tuấn Anh thuê đất tại Đình Thôn, Nam Từ Liêm đã mấy chục năm nay, nhưng sang năm Tân Sửu 2021 sắp bị chủ đất bắt di dời để lấy đất xây nhà. Vua lan muốn có một khoảnh đất riêng ở ngoại thành để lập vườn lan mới, nhưng chả có cấp thẩm quyền nào chịu chứng nhận cho anh là đang sản xuất nông nghiệp để bán đất quy hoạch trang trại cho. Thế mới khó thay! Tuấn Anh ngậm ngùi lắm:

- Các cụ cao niên làng lan xứ Bắc đã đi xa gần hết. Đến thế hệ tôi thì chỉ có một vài người. Khá là đơn độc. Các bạn trẻ tham gia thú chơi lan hiện nay cũng đông đúc, giỏi giang lắm. Nhưng đa phần các cậu ấy chỉ quan tâm đến việc kinh doanh kiếm lợi với những giống lan thời thượng chiều đãi thị hiếu đám đông, chứ không mấy ai mặn mà với việc sưu tập, bảo tồn, phục tráng các giống lan cổ truyền của cha ông. Đó là sự thực.

Lâu nay, nếu như giới chơi phong lan đang bị cuốn hút vào những dòng lan đột biến giá tiền bạc tỷ thì giới chơi địa lan lại đang bị hấp dẫn bởi những dòng lan kiếm (dòng lan lá to hình giống chiếc kiếm) mới sưu tầm được tại những vùng rừng sâu núi thăm của Việt Nam và các nước Đông Nam châu Á.

Trước nhu cầu thị trường địa lan càng phát triển, mở rộng, các nhà khoa học đầu ngành trồng trọt ở nước ta cũng chẳng thể thờ ơ, nếu như không nói rằng, nhu cầu đó cũng tạo lập một cơ hội tốt cho họ thể hiện sự tinh nhạy và tài năng chuyên môn. Bắt đầu từ năm 1997, Trung tâm Hoa cây cảnh thuộc Viện di truyền nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành đề tài khoa học nghiên cứu phát triển các loài hoa địa lan thơm Hà Nội. Chị Phạm Thị Liên là người được giao chuyên nghiên cứu về đề tài nhân giống vô tính trong phòng thí nghiệm để đưa ra trồng đại trà các giống lan quý cổ truyền dân tộc. Đó chính là đề tài bảo vệ luận án tiến sĩ của chị hoàn thành tốt đẹp vào năm chuyển giao thế kỷ, năm 2000. Tuy nhiên, đề án cũng chỉ dừng ở một vài giống lan thông dụng như lan

Hạc đính, lan Trần mộng chứ chưa đạt số lượng như mong muốn với những giống lan quý hiếm của cha ông.

Kể thêm hầu quý vị một câu chuyện nhỏ. Tôi vốn gắn bó với làng trẻ mồ côi SOS Hà Nội tại Mai Dịch từ khi làng trẻ mới hình thành vào đầu thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, thấm thoắt đã hơn ba mươi năm. Ngôi nhà Hoa Phượng trong làng trẻ là nơi tôi nhận đỡ đầu một cháu nhỏ mồ côi cho nên với tôi là thân thiết nhất. Người mẹ của nhà Hoa Phượng tên là Ngô Thị Sinh. Mẹ Sinh sinh năm Ất Mão 1975. Chị cũng như tất thảy các bà mẹ SOS, đều là những người phụ nữ tình nguyện không xây dựng hạnh phúc lứa đôi để trọn đời cống hiến cho sự nghiệp nuôi dưỡng trẻ mồ côi cơ nhỡ. Mẹ Sinh không chỉ nuôi dạy các con rất khéo léo mà còn có tài trồng rau quả cho các con ăn hằng ngày và chăm hoa cảnh trang trí khuôn viên quanh năm rất giỏi. Tại mặt trước ngôi nhà Hoa Phượng, mẹ Sinh trồng đầy phong lan, địa lan. Mùa xuân đến, hoa nở rạng rỡ, hương thơm ngào ngạt. Nói thì bảo buồn cười, nhưng trong đó tôi rất thích mấy khóm địa lan vào hạng bình dân nhất, giới sành chơi lan chả bao giờ đoái hoài đến, nhưng vẫn nở hoa tím ngát, đẹp đến nao lòng, ấy là hoa Chu đinh lan. Mẹ Sinh thấy mỗi lần tôi vào làng trẻ cứ mê mẩn ra ngắm vào trông nên vồn vã:

- Chu đinh lan thường lắm chị ạ. Trồng cho đẹp mắt thôi. Để em gửi biếu chị mấy giò lan thơm chị chơi nhé!

- Ấy không! Chị đi suốt, có thời gian đâu mà chăm hoa. Nó lụi đi thì phí lắm em ạ. Thi thoảng chị vào chơi với mấy mẹ con và xem ngắm là vui rồi. Chăm hoa phải có tay, chứ có phải ai muốn là cũng được đâu.

Những thú chơi cổ truyền thanh lịch hào hoa cứ dần dần sống lại, chẳng cần đến một cuộc hô hào vận động rầm rộ tốn kém nào, phải chăng chúng cũng chính là những tín hiệu có giá trị đích thực từ một cuộc sống vật chất và tinh thần ngày một sung túc và hài hòa của người Hà Nội hôm nay./.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Dư âm trống hội làng Mai

Dư âm trống hội làng Mai

"Dư âm trống hội làng Mai" là nhan đề bài Podcast hôm nay, bài viết của tác giả - nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Xã hội, Đài PT - TH Hà Nội. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Sau mỗi keo đấu vật thờ Thánh, có tính chất thao diễn tượng trưng, màn "xe đài" ông lão Tư Đẩy chỉ còn có thể chạy quanh bên xới, cổ vũ cho các trai đô trẻ trong làng. Nhưng đã mấy năm rồi, trai đô làng Mai không giật được giải của chính hội làng mình.

Mỗi năm sau trận chung kết, nhìn các trai đô thiên hạ hùng dũng giật giải, mình trần, khố đỏ lễ tạ thánh hoàng làng, lòng lão đô vật oai hùng một thời không khỏi thoáng chút ngậm ngùi, xót xa...

Trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai.

Tùng tùng tùng tùng... Những hồi trống hội làng Mai Động rung lên trong không trung. Lá cờ đại trước cổng đình bay như lượn sóng trong gió xuân. Khói nhang thơm hòa trong màn sương sớm bảng lảng giăng đầy lối ngõ. Đầu xuân sớm, khi cây đa đầu đình vừa kịp trổ lứa búp lộc non tơ đầu tiên mịn màng như nhung lụa thì những tiếng trống hội làng Mai đã trỗi dậy vang động khắp cả một vùng phố thị, xóm làng rộng lớn. Gần 2000 năm đã qua, những hồi trống hội làng Mai đã trở thành những lời mời gọi vô cùng linh diệu cho con dân làng Mai từ tứ xứ trở về quần tụ nơi chốn tổ trong ngày hội vật Mai Động truyền thống từ xa xưa. Ca dao cổ Hà Nội đã có câu: Thanh Trì có bánh cuốn ngon / Có lò đấu vật, có con sông đào.

Ngày mùng bốn tháng Giêng âm lịch hàng năm chính là ngày khai hội của làng quề Mai Động đã bao đời nay. Hội làng Mai Động có những màn đấu vật đã từng nổi danh khắp xa gần.

Ông lão Tư Đẩy năm ấy tuổi đã ngoại bẩy mươi, tóc trắng như cước. Song nhìn những đường bước cùng với những mảng miếng tren xdi vat cia ong lac, thi cac do tre trai tu6i doi muci cũng thế mà học theo. Ông lão Tư Đẩy chính là một trong những đại diện sáng giá của làng vật Mai Động vào những năm giữa của thế kỷ XX. Nhưng theo quy luật của tạo hoa, không ai có thể trẻ mãi.

Hàng chục năm nay, ông lão Tư Đẩy chỉ có thể thi đấu thao diễn tượng trưng trong những keo vật thờ Thánh, keo vật khai hội mà thôi. Keo vật thờ mang tính nghi lễ và ước lệ cao với động tác đầu tiên gọi theo lối cổ là múa Xe đài bái Thánh.

undefined
Trống hội làng Mai

- Già rồi, lão chỉ lấy chén rượu làm vui thôi. Chứ mà thời trai trẻ thì lão đánh bay hết. Tư Đầy làng Mai chưa có thua keo nào bao giờ. Nhưng mấy năm nay thì chịu rồi. Nhường cho lới trai trẻ thôi.

Mai Động, xưa là hương Cổ Mai là vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long, thuộc huyện Thanh Trì cũ.

Tương truyền, vào những năm đầu công nguyên, có một người trai đô gốc ở xứ Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa) tên là Tam Trinh, người họ Nguyễn, ra nơi đây mở lò luyện võ cho trai đinh trong vùng. Mùa xuân năm 40, theo lời hiệu triệu của Hai Bà Trưng, Đô Trinh đã dẫn đầu 3000 trai đô trong vùng lên đường diệt giặc, góp công thu lại giang sơn gấm vóc. Hội vật làng Mai tương truyền cũng khởi nguồn từ ấy, trải đã kể gần hai ngàn năm. Lễ khai hội nhằm ngày mồng bốn tháng giêng, khi hương xuân, vị tết còn nồng nàn trên từng ngõ xóm. Lễ hội diễn ra tại sân đình Mai Động, nơi mà dân làng lập làm nơi thờ tự Đức Thánh Tam Trinh là thành hoàng tối linh, tối hảo của muôn đời.

Mở đầu dịp hội xuân làng Mai Động bao giờ cũng là lễ rước kiệu của Đức Thánh Tam Trinh từ nghè Mai Động ra đình Mai Động.

Tiếp đó là lễ dâng hương trang trọng và linh thiêng để tưởng nhớ công ơn của Đức Thánh với bà con dân thôn và khắp cả một vùng đất rộng lớn lân cận.

Lệ vật Mai Động có hai vai trọng tài đó là trọng tài trống và trọng tài sới.
Cuộc thi đấu sẽ bắt đầu khi trọng tài trống nổi hồi tróng khai hội. Tiếp đó, trọng tài sới sẽ giữ phần chỉ huy trận đấu, phân định thắng thua.

Sới vật được mở ngay trước sân đình, mở đầu cuộc thi bao giờ cũng là màn đấu vật do các lão đô vật kì cựu đã từng nhiều năm thi đấu và giật giải trong các kì hội làng thể hiện gọi là keo vật thờ

Thánh. Ngày đầu tiên trong cuộc thi đấu vật Mai Động, ngày 4 tháng Giêng bao giờ cũng dành cho các đô vật tuổi thiếu niên và nhi đồng thể hiện tinh thần trân trọng những mầm non tài năng của quê hương. Tuy nhiên, không khí thi đấu bao giờ cũng rất sôi động. Từ những giải đấu thiếu niên này biết bao thế hệ trai đô Mai Động đã trưởng thành và giành giải ở các cuộc thi dành cho các đô vật trưởng thành lừng danh toàn quốc. Ngày thứ hai, mùng 5 và ngày thứ ba, mùng 6 tháng Giêng là dành cho các cuộc thi đấu của các đô vật trưởng thành. Tự bao năm qua, sới vật Mai Động không chỉ là nơi hội tụ của các trai đô, lão đô trong làng mà còn thu hút danh tài từ tứ chiếng đến tỉ thí, so tài. Lệ thi vật dân gian truyền thống Mai Động không quy định cân nặng hay tuổi tác, chỉ là các trai đô trên 18 tuổi trở lên là có thể thách đấu và nhận lời thách đấu.

Sới vật sân đình Mai Động chính là nơi các trai đô thể hiện bằng hết các miếng võ dân gian cổ truyền đã được rèn tập suốt bao năm tháng. Không khí của các cuộc thi đấu cứ theo thời gian mà hun máu đến mức cao độ và buổi thi đấu kết hội vào chiều ngày 6 tháng Giêng. Lệ làng Mai Động quy định, mỗi đô vật sẽ thi đấu ba keo, thời gian mỗi keo không quy định dài ngắn. Cứ hẽ thắng thua rõ ràng là kết thúc. Có khi keo đấu chỉ bắt đầu vài mươi giây đã kết thúc, có khi keo đấu kéo dài vài giờ đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Cựu đô vật Nguyễn Đoàn Thụy, người làng Mai Động còn nhắc nhớ:

- Sau ba keo đấu liên tục, hễ đô vật nào thắng cả ba đối thủ khác nhau thì đô ấy được giải. Nhưng mà trong lịch sử hội vật Mai Động có nhiều năm trời đã sập tối mà cuộc đấu vẫn dằng dai quyết liệt cho nên vẫn chưa phân định được giải. Vậy là các bô lão trong làng đành đi đến quyết định là chia đôi giải.

Những năm gần đây, giải thưởng cao nhất hầu như đều được trao cho các trai đô đến từ các sới vật ngoài làng Mai Động. Cụ Triệu Văn Hữu người làng Mai Động bày tỏ niềm tiếc nuối:

- Giải vật thờ Thánh bao giờ cũng phải trung thực, công minh.

Ai xứng đáng thì được nhận giải vào bái Thánh. Nhưng mà trước đây trai đô Mai Động thường khó để trai đô thiên hạ giành giải như mấy năm gần đây. Nghĩ cũng có chút chạnh lòng.

Khác với mọi hôm, lão đô Dũng hôm nay dậy từ rất sớm, lũ cháu nhỏ đang đợi ông dẫn ra đình dự hội, ngày hội mà chúng hằng mong mỏi suốt một năm ròng. Bà nhà biết ý, đã sắp cho ông một bộ quần áo đẹp. Chẳng gì thì bốn mươi năm trước, khi ông còn là một trai đô trẻ giỏi giang trong làng, sau lớp ông Tư Đẩy.

Đã có biết bao cô gái làng Mai từng phải lòng anh đô Dũng, rồi rốt cùng chỉ mình bà được theo ông về làm bạn. Thế mà, ra đến đám hội, ông đã hầu như quên mất có bà đi theo. Ông lao vào không khí đám hội bừng bừng, sôi sục. Chuyện đó là lẽ thường ở làng Mai này, khi mà ở làng, máu mê vật dường như lúc nào cũng chảy rừng rực trong huyết quản mỗi người đàn ông. Hào hứng xem lũ trẻ trong làng thi đấu, ông Dũng như sống lại cả một thời thơ ấu mê say thuở nào. Nhưng lũ trẻ làng Mai bây giờ thi đấu với nhau xem ra chỉ có chung một quyết tâm chiến thắng bằng sức lực, mà chẳng hề biết đến những mảng miếng, lệ luật võ vật dân tộc cổ truyền. Kể cũng tội nghiệp, chúng nào có được học hành luyện tập đến nơi đến chốn bao giờ đâu.

Lệ làng từ xa xưa trước ngày vào hội từ những lò vật nhỏ nằm rải rác trong khắp các thôn xóm đã diễn ra những cuộc đấu tập rèn luyện những miếng võ vật cổ truyển của làng Mai cho các đô vật, đặc biệt là các đô vật trẻ tuổi lớp cháu con. Rồi cứ tiếp nối như thế ông truyền cho cháu, cha dạy cho con, anh rèn cho em. Gia đinh, họ hàng và xóm giềng động viên, cổ vũ nhiệt liệt, đó chính là một trong những lề lối để giữ lại truyền thống thượng võ của cha ông xưa và rèn luyện sức khỏe cho người dân trong cả làng. Đó cũng chính là những cuộc rèn tập để chờ đến các cuộc đua tài hội xuân làng Mai Động. Nhưng nếu chỉ nhìn bề ngoài, khó ai biết được những thăng trầm của lò vật làng Mai. Ông Dũng than thở:

- Ngày xưa trai trẻ chúng tôi ăn có lúc chả đủ no nhưng luyện tập thì hăng hái lắm. Bây giờ đám trai trẻ chúng nó cứ say mê những trò gì chả biết. Đất làng vật mà chả mấy ai còn tập tành rèn luyện như ngày xưa.

Nếu như ông lão Tư Đẩy là đại diện cho lớp đô vật làng Mai vào những năm 50, ông Dũng là đại diện cho thế hệ kế tiếp ở thập kỷ 60, thì anh chàng trọng tài của trận đấu hôm ấy, anh đô Toàn là một trong những người đại diện cho lớp trai đô của làng vào thập niên 80 của thế kỷ XX. Anh đô Toàn, người nghềnh ngàng cao lớn chẳng khác nào pho tượng ông tướng cửa đình. Giọng nói nghe ồm ồm, ra dáng con nhà nòi võ vật. Trong ký ức của anh, làng Mai chưa bao giờ không sẵn những đô tài nổi danh, đặc biệt là những đô vật trước anh một thế hệ, thế hệ của thập niên 70, thế kỷ XX với biết bao ngón nghề mà anh từng khâm phục. Những chuyện đó như cũng đã lùi xa vào dĩ vãng, mỗi khi nhớ tới, là một lần lòng kiêu hãnh lại xen chút ngậm ngùi:

- Ví dụ có những miếng sườn nhanh, mà người ta gọi là sườn cóc. Nghĩa là vào sới có thể vật ngã đối thủ trong tích tắc. Lại có những miếng như là miếng sườn quỳ. Khi bị đối phương đánh ngã, ngã quỳ trên sới rồi mà vẫn có thể dùng miếng sườn quỳ ấy quật ngã lại đối phương. Lại có khi đã ở cuối thế lồng tay tư, sắp gục mà dùng được miếng vật, gọi là miếng moi, quay ngang đánh ngã đối phương. Nhưng những miếng vật hay như thế, bây giờ hiếm thấy ở lớp trẻ.
Có nhiều yếu tố khiến cho phong trào vật ở Mai Động chỉ dừng ở bề nổi, chỉ dừng ở vẻ rực rỡ hình thức trong lễ hội, mà không đi vào chiều sâu của việc rèn luyện thể dục, thể thao, bảo vệ sức khỏẻ, duy trì tinh thần thượng võ. Trước hết là do thiếu các điều kiện luyện tập như sân bãi, kinh phí. Như nhiều làng xã ven đô, làng Mai Động, không mấy chốc sẽ trở thành phố. Dấu ấn văn hoa làng quê xưa cũ đang dần phôi pha. Những tập tục cổ truyền hầu như cũng đang sắp lạt phai theo năm tháng, hoặc bị chìm lấp dần trong nhịp sống đô thị hiện đại. Nhưng ngẫm lại thì nguyên nhân dẫn đến sự mai một dần của phong trào luyện tập võ vật thường xuyên ở Mai Động, chính là thiếu một sự quan tâm, động viên, và thiếu trách nhiệm tổ chức, tập hợp của chính quyền và các cơ quan chức năng hữu quan, như ngành văn hóa thông tin và ngành thể dục thể thao.

Có một mảnh vườn nằm sâu giữa làng trước đây từng là một xới luyên vật có hàng chục trai đô của làng góp mặt. Nhưng giờ đây, nó hầu như đang bị bỏ hoang. Bà Lê Thị Loan, một người phụ nữ có ông chồng và cả hai đứa con trai đều mắc máu mê vật, đang dùng chiếc chổi tre quét sàn sạt trên mảnh vườn lỏng chỏng mấy tay tạ cũ gỉ cùng mấy món đồ nghề luyện tập thể dục mốc thếch:

- Mấy năm trước, bố con chúng cũng gọi được thêm mấy đô trẻ trong làng đến tập luyện. Tập xong, có mùa giành giải nhất đấy.

Thế nhưng mà rồi phường phố chẳng có gì quan tâm động viên, duy trì, nên bố con chúng cũng nản. Mấy năm rồi toàn là người thiên hạ về giật giải của làng thôi. Trai làng chỉ vật ở vòng ngoài, không mấy ai vào đến vòng kết.

Nguyễn Văn Trường là một chàng trai Mai Động cách đây ba bốn năm đã từng giật giải hội làng. Không hiểu sao, có lúc ma đưa lối, quỷ dẫn đường, chàng trai đô đã sa vào làn khói ma tuý đây huyễn hoặc. Tại Mai Động, đó không phải là trường hợp đáng buồn duy nhất. Bây giờ, Trường đang trong giai đoạn cai nghiện tại nhà, khó khăn và khổ sở biết mấy. Có lẽ, chỉ có trò luyện vật cho lũ trẻ là niềm vui bé nhỏ của chàng trai. Liệu rồi anh có trở lại được phong độ của một thời không xa lẫy lừng trên xới vật? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời.

Thiếu đi một lớp trai đô thời hiện tại, đó là một thiệt thời cho đất làng Mai. Thế nhưng đối với những con người giàu tâm huyết trong làng, thì việc bắt đầu trở lại chưa bao giờ lại có thể coi là muộn. Nhất là khi lớp trẻ mê vật trong làng, cũng hàng trăm đứa.

Chúng mê từ tiếng trống hội làng mà mê sang những mảng miếng thần tình của cha ông. Hướng cho chúng vào một niềm mê say lành mạnh, tức là đã góp phần giúp cho lớp trẻ có điều kiện lánh xa những tệ nạn xã hội nguy hiểm như cờ bạc, nghiện ngập, những tệ nạn đang lây truyền khá là mạnh mẽ ở ngay chính mảnh đất văn hiến lâu đời này. Ông lão đô vật Dũng ở tuổi ngoại lục tuần vẫn tràn ngập hy vọng ở lớp trẻ. Giữa những buổi luyện tập, ngẫu hứng, ông thường kể cho chúng về một thời hào sảng, trẻ trung năm nào:

- Ngày xưa, khi ông còn trai trẻ, dịp lễ hội mùa xuân, thường nhóm bạn đi vật hội khắp các làng xã mấy tỉnh thành, thắng thua đều háo hức lắm. Đến dịp hội Gióng mồng chín tháng Tư âm lịch mới coi như kết thúc. Con người ta qu nhất là sức khoẻ. Có sức khoe mới có thể làm ra của cải, gây dựng cuộc sống ấm no.

Trong đám hội làng Mai Động mồng 4 tới mồng 6 tháng Giêng, người ta vẫn thường bắt gặp rất nhiều gương mặt già trẻ gái trai từ khắp nơi về tụ hội. Đặc biệt là người dân trên các phố Hà Nội.

Một ông lão mặc bộ com lê màu ghi sáng, đội chiếc mũ phớt sang trọng tươi cười xưng tên là Lê Văn Hùng, nhà ở số 71 phố Nguyễn Lương Bằng. Tuy đã ở tuổi ngoại bẩy mươi nhưng chưa năm nào ông bỏ một mùa hội làng Mai. Mỗi lần dự hội, ông như thấy mình thêm một lần trẻ lại:

- Nghe tiếng trống thúc là thấy như mình cũng muốn lao vào xới vật. Người cứ như uống được liều thuốc tiên. Tôi còn sống còn mong đến mùa xuân, còn đi xem hội vật làng Mai. Thật đấy.

Còn mấy cô nữ sinh trung học, đang còn khoác nguyên ba lô sách vở trên vai, những gương mặt sáng ngời và những đôi mắt lấp lánh đang háo hức chờ đón điều gì sau hồi trống kết hội? Nguyễn Thanh Mai, nữ sinh trường trung học phổ thông Minh Khai rất hồ hởi:

- Chúng em vừa tan buổi học đầu xuân mùng sáu tết là về ngay đây còn kịp xem màn chung kết. Nghe trống giục rất phấn khích. Giống như tham gia trò chơi cảm giác mạnh. Xem ai thắng giải chúng em vào xin chụp kiểu ảnh đưa FB cho oách ạ.

Khoảng trên chục năm trở lại đây, luồng gió đổi mới trong nền kinh tế xã hội của thành phố đã thổi một luồng sinh khí mạnh mẽ làm sống dậy những truyền thống văn hóa tinh thần tốt đẹp trong quá khứ. Truyền thống thượng võ lâu đời của dân làng Mai cũng trở lại rạng rỡ cùng những kỳ hội làng mùa xuân.

Vợ chồng anh đô Toàn dù hàng ngày phải lao tâm lăn lộn chốn thương trường vì cuộc mưu sinh thường nhật, nhưng mỗi dịp tết đến, xuân về, không bao giờ quên mua một cành đào thật lớn dâng lên ban thờ tổ. Đó chính là ý nguyện của ông nội anh thưở sinh thời, khi cụ còn là một đô vật nổi danh hàng đầu của làng Mai những năm trước Cách Mạng Tháng Tám. Bởi vì hội làng Mai mở đúng dịp Tết Nguyên đán, cùng với mùa đào hoa rực rỡ. Và sâu xa trong ý nguyện đó, là ước mong cho truyền thống thượng võ của người làng Mai mãi mãi rỡ ràng, cho mãi mãi hội làng Mai xứng danh trong nỗi nhớ và niềm tự hào không chỉ của người làng Mai.

Sau mỗi keo đấu vật thờ Thánh, có tính chất thao diễn tượng trưng, màn xe đài ông lão Tư Đẩy chỉ còn có thể chạy quanh bên xới, cổ vũ cho các trai độ trẻ trong làng. Nhưng đã mấy năm rôi, trai đô làng Mai không giật được giải của chính hội làng mình. Mỗi năm sau trận chung kết, nhìn các trai đô thiên hạ hùng dũng giật giải, mình trần, khố đỏ lễ tạ Thánh hoàng làng, lòng lão đô vật oai hùng một thời không khỏi thoáng chút ngậm ngùi, xót xa... Trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai.

Và anh độ Toàn cũng vậy, vẫn khắc ghi trong dạ một nỗi buồn sâu thẳm. Thế nhưng khi tiếng trống hội làng bắt đầu trỗi dậy, anh lại mê say lao vào vị trí trọng tài mà dân làng giao phó. Mà phẩm chất cao đẹp nhất của người trọng tài là công bằng và phân minh, trung thực và vô tư.

Kể từ khi được phục hồi, danh tiếng của hội vật Mai Động ngày càng trở nên sáng giá thu hút rất nhiều danh tài tứ xứ, kể cả các tuyển thủ trong đội tuyển vật quốc gia về tranh tài và đoạt giải.

Người được giải sẽ được trao phần thưởng lên tới hàng triệu đồng do dân làng Mai Động đóng góp và được mang nguyên trang phục thi đấu đơn sơ vào lễ tạ Đức Thánh hoàng làng. Tuy nhiên, trong sâu thẳm tâm tư người Mai Động vẫn mong sẽ đến một ngày nào đó trai làng Mai lại có thể giật giải ở chính hội vật của làng Mai. Và anh đô Tài cũng như biết bao những cựu đô vật của làng Mai, vẫn hằng gửi gắm bao hy vọng vào lớp đô vật tý hon của làng. Chờ tới những mùa hội làng xuân mới, sẽ lại có lúc, anh kiêu hãnh giương cao cánh tay của trai đô làng Mai trong niềm vui chiến thắng.
Tùng tùng tùng tùng... Tùng tùng tùng tùng... Nhớ sao những hồi trống vật làng Mai.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới

Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới

“Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới” là nhan đề bài viết theo Chuyên trang Hồ sơ sự kiện được đăng tải trên Tạp chí Cộng sản, là bài Podcast mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Gia tộc Rothschild là “triều đại” ngân hàng - tài chính của các tỷ phú gốc Do Thái giàu hàng đầu thế giới. Báo chí gọi Rothschild bằng những cái tên khác nhau như “chủ của các ngân hàng trên thế giới”, “hoàng đế tài chính của người Do Thái” hoặc “Nhà nước ngầm” đang nắm quyền kiểm soát thế giới và tài trợ cho các cuộc chiến tranh, xung đột và “cách mạng màu” để lật đổ các chính phủ không đáp ứng lợi ích của họ.

Lịch sử hình thành và phát triển của Rothschild

Tên tuổi nhiều gia tộc tài phiệt của người Do Thái gắn liền với thành phố Frankfurt on Main của nước Đức. Gia tộc Rothschild cũng không phải là ngoại lệ. Từ cuối thế kỷ XVII, Frankfurt on Main là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở nước Đức và có quan hệ thương mại chặt chẽ với các thành phố lớn khác của châu Âu.

Ở Frankfurt on Main có sàn giao dịch chứng khoán lâu đời hàng đầu thế giới. Từ thế kỷ XVI, các giao dịch lớn bằng cổ phiếu đã được thực hiện tại các hội chợ Frankfurt. Đến thế kỷ XVIII, người Do Thái gần như độc quyền buôn bán kim loại quý, kim cương và các loại hàng xa xỉ ở châu Âu, mang lại cho họ đòn bẩy ảnh hưởng đối với tầng lớp quý tộc.

Sự hiện diện của người Do Thái trong hệ thống tài chính châu Âu thu hút sự chú ý đặc biệt sau cuộc Chiến tranh Napoleon (1803 - 1815) bởi sau cuộc chiến này đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của gia tộc Rothschild.
Người sáng lập gia tộc Rothschild là Mayer Amschel, sinh năm 1743 tại khu ổ chuột dành cho người Do Thái ở Frankfurt on Main. Cha của Mayer Amschel là Amschel Moses Bauer - người quản lý một văn phòng đổi tiền được trang trí bằng một biểu tượng dưới dạng chiếc khiên màu đỏ khắc hình ảnh con đại bàng được mạ vàng.

Vì thế, về sau Mayer Amschel chọn từ Rothschild để đặt tên cho dòng họ của ông, có nghĩa là “chiếc khiên màu đỏ”. Từ đó, tên của Mayer Amschel được đổi thành Mayer Rothschild.

Năm lên 12 tuổi, Mayer Rothschild đến thành phố Hanover và bắt đầu học việc tại ngân hàng Oppenheimer - một gia tộc ngân hàng của người Do Thái. Khi trở về Frankfurt on Main, Mayer Rothschild bắt đầu sự nghiệp bằng hoạt động kinh doanh tiền đúc từ kim loại quý và đồ cổ, chủ yếu là huân, huy chương cổ.

Vì vậy, có giả thuyết cho rằng, tài sản kếch sù của gia tộc Rothschild bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh tiền đúc. Từ năm 1764, Mayer Rothschild bắt đầu cung cấp tiền xu và vàng cho Hoàng đế William IX và Bá tước Hesse-Kassel - một trong những vị quân chủ giàu nhất châu Âu thời bấy giờ.

Từ năm 1769, Mayer Rothschild trở thành chủ một ngân hàng tư nhân và là nhà cung cấp tài chính chủ yếu cho gia tộc Hesse-Kassel.

Bộ luật gia tộc Rothschild do Mayer Amschel soạn thảo Mayer Rothschild là chủ nhân đầu tiên của gia tộc Rothschild. Để duy trì và phát triển gia tộc, Mayer Rothschild soạn thảo bộ luật gia tộc gồm 5 điều.

Điều 1, chỉ giao quyền quản lý doanh nghiệp cho các thành viên trong gia tộc. Chỉ có nam nhân mới được tham gia kinh doanh và chỉ có nam nhân trực hệ mới có quyền được thừa kế.

Con trai cả trong các gia đình của gia tộc là chủ nhân của gia đình có quyền ra quyết định trên cơ sở đồng thuận của các thành viên khác.

Điều 2, nam nhân chỉ được phép kết hôn với chị em họ thế hệ thứ hai để tài sản tích luỹ được và tên tuổi chỉ thuộc về gia tộc và phục vụ cho sự nghiệp chung của gia tộc. Nữ nhân chỉ được phép kết hôn với giới quý tộc và vẫn duy trì đức tin của mình là Do Thái giáo.

Điều 3, không được phép kê khai tài sản của gia đình, cũng không được tiết lộ quy mô tài sản, kể cả trong trường hợp phải ra hầu tòa. Tranh chấp giữa anh em chỉ được giải quyết trong nội bộ gia đình.

Điều 4, các thành viên trong gia tộc sống hòa thuận, tin tưởng và yêu thương nhau, cùng chia sẻ lợi nhuận một cách bình đẳng.

Điều 5, các thành viên gia tộc duy trì lối sống khiêm tốn, tiết kiệm bởi đây là một trong những yếu tố làm nên sự giàu có.

Điều 6, quyền lãnh đạo gia tộc được trao cho thành viên nào có năng lực hơn tất cả trong việc làm giàu cho gia tộc mà không phụ thuộc vào thâm niên hành nghề hay tuổi tác. Nhờ sự tập trung quyền lực này mà gia tộc Rothschild đã vượt qua mọi cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán.

Các thành viên thế hệ đầu tiên của gia tộc Rothschild

Mayer Rothschild là người đặt nền móng cho khối tài sản khổng lồ của Rothschild và có 5 con trai được đặt tên là Amschel, Solomon, Nathan, Karl, James, tất cả đều mang họ Rothschild.

Chính các con trai của Mayer Rothschild đã nhân số tài sản của gia tộc lên gấp hàng nghìn lần, trong đó có 2 người kiểm soát 5 ngân hàng ở các thành phố lớn nhất châu Âu. Amschel Rothschild - con trai cả của Mayer Rothschild - đứng đầu ngân hàng ở Frankfurt on Main năm 1812, sau khi cha ông qua đời.

undefined
Gia đình Rothschild.

Về sau, do Amschel Rothschild không có con nên sau khi ông qua đời, quyền quản lý ngân hàng được chuyển cho các cháu trai của ông. Nathan Rothschild mở một doanh nghiệp ở London - nơi ông thành lập ngân hàng N. M. Rothschild & Sons vào năm 1811. Năm 1814, ngân hàng này tài trợ cho cuộc chiến chống lại Napoleon.

Năm 1816, Solomon Rothschild mở một ngân hàng ở Vienna và là người thành lập chi nhánh Rothschilds ở Áo. Ông là nhà công nghiệp và là chủ đất lớn nhất ở Áo, sở hữu các mỏ than ở Vitkovica và một nhà máy sản xuất nhựa đường ở Dalmatia.

Trái với bộ luật của gia tộc, Nathan Rothschild kết hôn với Chana Cohen - con gái của tỷ phú Barent Cohen và là người Do Thái giàu nhất châu Âu thời bấy giờ. Con trai Nathan Rothschild là Lionel Rothschild tiếp tục mở rộng đế chế tài chính của gia đình. Một chi tiết khá thú vị là Karl Marx - người sáng lập chủ nghĩa Marx xuất thân từ gia đình bên ngoại của Barent Cohen.

Chính gia tộc Rothschild xây dựng đế chế tài chính ở Anh, phần lớn dựa vào vị thế của các nhà tài phiệt gốc Do Thái có quan hệ họ hàng thân thiết. Gia tộc Rothschild nhanh chóng phát huy ảnh hưởng rất lớn trong giới tài chính Anh. Chính Nathan Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu để thành lập Ngân hàng Anh trong 2 năm 1825 - 1826.

Năm 1885, con trai của Nathan Rothschild là Nathaniel Rothschild trở thành huân tước và là người Do Thái đầu tiên được gia nhập câu lạc bộ các huân tước của nước Anh. Thủ tướng Anh David Lloyd George gọi Nathaniel Rothschild là người đàn ông quyền lực nhất nước Anh vào năm 1909.

Karl Rothschild - con trai thứ tư của Mayer Rothschild - mở ngân hàng ở Naples và trở thành người đứng đầu chi nhánh Naples của gia tộc Rothschild và trở thành chủ ngân hàng của Giáo hoàng và Vương quốc xứ Sicilia.
Con trai út James Rothschild khởi đầu kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Paris và thành lập công ty kinh doanh De Rothschild Freres. Ông là một trong những nhà tài trợ cho các nhà cách mạng thế kỷ XIX, trở thành đồng minh của Mỹ và là bạn thân của Tổng thống Abraham Lincoln.

James Rothschild từng tuyên bố: “vũ khí đích thực không được cất giữ trong kho trang bị của các bộ trưởng chiến tranh ngu ngốc mà là trong ngân hàng của tôi”.

Tài sản của Rothschild

Gia tộc Rothschild tuân thủ rất nghiêm ngặt các điều luật của triều đại này và không tiết lộ quy mô tài sản của mình. Theo ước tính thận trọng của giới phân tích tài chính, tính đến năm 2024 tài sản của gia tộc Rothschild có thể vượt quá 3.500 tỷ USD.

Ngoài khối tài sản khổng lồ bằng USD này, gia tộc Rothschild còn sở hữu khối tài sản vô hình có giá trị không kém. Đó là tài nguyên thông tin. Từ những năm đầu thập niên thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild đã tạo ra mạng lưới đại lý và bộ máy thông tin nhanh nhạy nhất thế giới.

Họ là những người đầu tiên biết được mọi chuyện đang diễn ra ở thủ đô các nước trên thế giới và thu về bội tiền trên sàn giao dịch chứng khoán. Gia tộc Rothschilds thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường bằng mọi cách mà pháp luật không cấm.

Nathan Rothschild từng tuyên bố: “ai sở hữu thông tin sẽ kiểm soát thế giới”. Chính Nathan Rothschild là người biết trước Napoleon sẽ đại bại ở trận Waterloo. Với thông tin này, ông kiếm được 40 triệu bảng Anh trên sàn giao dịch chứng khoán.

Gia tộc Rothschilds ở Nga

Từ thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild theo đuổi mục tiêu chính ở Nga là thiết lập quyền kiểm soát các mỏ dầu ở Baku. Từ năm 1886, Ngân hàng Rothschild Brothers sở hữu cổ phần của Công ty thương mại và công nghiệp dầu mỏ Biển Đen - Caspian và bắt đầu tham gia tích cực vào việc phát triển ngành công nghiệp dầu mỏ ở vùng Caucasus. Rothschild từng tài trợ cho các dự án xây dựng tuyến đường sắt Baku - Batumi.

Từ năm 1887, họ độc quyền vận chuyển dầu mỏ từ Azerbaizan. Đến năm 1890, Rothschild kiểm soát 42% lượng dầu xuất khẩu từ Baku. Công ty dầu mỏ Rothschild thuê tàu chở dầu để vận chuyển qua kênh đào Suez và kiểm soát dầu từ Baku tới thị trường trên khắp các châu lục. Gia tộc Rothschild mua tàu chở dầu trên biển Caspian và xà lan chở dầu trên sông Volga.

Cuộc cách mạng năm 1905 ở Nga châm ngòi cho cuộc khủng hoảng trong ngành sản xuất dầu mỏ do các cuộc đình công, đốt phá các cơ sở sản xuất dầu, làm tê liệt hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu của Rothschild sang châu Âu.

Năm 1912, dự đoán trước cuộc cách mạng sẽ bùng nổ vào năm 1917, Rothschild quyết định ngừng kinh doanh dầu mỏ ở Nga và bán tất cả tài sản ở Nga cho Công ty Royal Dutch Shell của Anh - Hà Lan.

Trong kỷ nguyên Chiến tranh lạnh, gia tộc Rothschilds từng tài trợ cho các dự án nhằm làm tan rã Liên Xô. Chính Rothschild tài trợ cho chiến dịch bí mật đưa Mikhail Gorbachev lên cầm quyền và tiến hành công cuộc “cải tổ” và phong trào ly khai trong các nước cộng hòa thuộc Liên Xô.

Vai trò của “nhà nước ngầm” Rothschild

Gia tộc Rothschild đứng đằng sau các dự án chính trị có ý nghĩa toàn cầu. Karl Marx và V. I. Lênin đều cho rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Là đế chế tài chính - ngân hàng lớn bậc nhất thế giới, Rothschild có ảnh hưởng đến các dự án chính trị có tác dụng làm thay đổi thế giới.

Dự án hình thành “nhà nước toàn cầu”. Gia tộc Rothschild chủ trương cùng với các tập đoàn tài phiệt Mỹ, đứng đầu là các tập đoàn tài phiệt Rockefeller và Morgan, thành lập “nhà nước toàn cầu” để giành quyền kiểm soát thế giới thông qua các công cụ tài chính.

Theo chủ trương đó, họ nỗ lực biến quá trình toàn cầu hóa sau Chiến tranh lạnh thành quá trình “Mỹ hóa thế giới” thông qua vai trò độc tôn của đồng USD, Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF).

Dự án xây dựng trật tự thế giới mới đơn cực sau Chiến tranh lạnh. Trật tự thế giới mới là chủ trương của Rothschild và các tập đoàn tài phiệt Mỹ thiết lập các công cụ xuyên quốc gia để giành quyền kiểm soát thế giới sau khi Liên Xô tan rã và trật tự thế giới đơn cực sụp đổ.

Dự án thành lập câu lạc bộ các tỷ phú vàng. Đây là câu lạc bộ của các nước phát triển kinh tế hàng đầu ở phương Tây với tổng dân số khoảng 1 tỷ người coi phần còn lại của thế giới chỉ là nguồn tài nguyên làm giàu cho họ.

Đối với giới tinh hoa của câu lạc bộ tỷ phú vàng, các nước phát triển cao ở phương Tây là “vườn địa đàng”, phần còn lại của thế giới là bãi thải công nghiệp, đồng thời duy trì quyền kiểm soát thế giới ngoài phương Tây trong trạng thái “hỗn loạn có kiểm soát”. Chính vì thế, chiến tranh, xung đột, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia,... bùng phát với tần suất ngày càng lớn.

Dự án tài trợ cho các cuộc “cách mạng màu”. Gia tộc Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu cho các cuộc “cách mạng màu” và đảo chính vũ trang ở châu Phi, Georgia, Kyrgyzstan, Trung Đông, Ukraina và nhiều quốc gia khác.

Trong đó, gia tộc Rothschild chọn ra tổng thống và thủ tướng của nhiều nước và khi cần sẽ loại bỏ họ. Rothschilds cũng là nhà tài trợ cho tiến trình Brexit đưa Anh rút khỏi EU./.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

    Trước         Sau    
Mobile VerionPhiên bản di động