Nội địa hóa thiết bị Nhà máy nhiệt điện: Khẳng định năng lực nghiên cứu trong nước
Mới đây, Viện Nghiên cứu Cơ khí (Bộ Công Thương) đã nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, tổ hợp và đưa vào vận hành hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than cho nhà máy nhiệt điện đốt than có công suất tổ máy đến khoảng 600 MW” do TS. Phan Đăng Phong làm chủ nhiệm đề tài.
Nhu cầu thiết bị của các nhà máy nhiệt điện rất lớn |
Đây là một trong các đề tài thuộc Dự án khoa học và công nghệ “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành một số hệ thống thiết bị phụ nhà máy nhiệt điện chạy than có công suất tổ máy đến khoảng 600MW” do Viện Nghiên cứu Cơ khí thực hiện.
TS. Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí - cho biết, đến nay, đề tài đã hoàn thành theo đăng ký với tỷ lệ nội hóa trên 51%, và có thể tăng hơn nữa ở các dự án tiếp theo, thậm chí đạt hơn 70% từ dự án thứ ba, đảm bảo mục tiêu nội địa hóa theo Quyết định 1791/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
“Kết quả của đề tài đã minh chứng cho khả năng của đội ngũ khoa học kỹ thuật trong nước với trình độ ngày càng được nâng cao và luôn nỗ lực học hỏi về công nghệ mới”- TS. Phan Đăng Phong nhấn mạnh.
Bộ Công Thương cũng vừa tổ chức nghiệm thu Đề tài “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và đưa vào vận hành hệ thống nước làm mát cho các nhà máy nhiệt điện đốt than có công suất tổ máy đến khoảng 600MW” do Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA) chủ trì thực hiện.
Chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương, ông Đỗ Minh Trí - Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Lilama18, đại diện nhóm nghiên cứu - cho hay, đây là lần đầu tiên bằng tự lực trong nước kết hợp với các chuyên gia nước ngoài, chúng ta nghiên cứu thiết kế thành công hệ thống nước làm mát nhà máy nhiệt điện đốt than 600MW.
Nhóm nghiên cứu đã chế tạo thiết bị từng bước, từ đơn giản đến phức tạp, chế tạo từng bộ phận (phù hợp với điều kiện kỹ thuật ở Việt Nam) kết hợp với nhập ngoại các bộ phận, thiết bị kỹ thuật cao và tích hợp toàn bộ hệ thống.
“Đề tài đã đạt được mục tiêu thực hiện lộ trình nội địa hóa sản phẩm cơ khí theo định hướng phát triển khoa học và công nghệ của Chính phủ đề ra. Cụ thể, tỷ lệ nội địa hóa: Phần thiết kế đạt 51,9%; chế tạo thiết bị: 80%; lắp đặt, chạy thử, bảo hành: 100%” - ông Đỗ Minh Trí nói.
Theo TS. Phan Đăng Phong, Quy hoạch điện VII, đến năm 2030, tổng công suất nhiệt điện than khoảng 75.000 MW, sản xuất khoảng 394 tỷ kWh chiếm 56,4% sản lượng điện sản xuất. Trong 10 năm (2013-2023), sẽ xây dựng và đưa vào vận hành 70 nhà máy nhiệt điện than với tổng công suất lắp đặt dự kiến khoảng 37.240 MW, trong đó có 44 tổ máy nhiệt điện than công suất 600 MW.
Tổng vốn đầu tư cho nhà máy điện do các chủ đầu tư trong nước thực hiện có thể lên tới 43,5 tỷ USD; trong đó, vốn đầu tư cho các thiết bị nhà máy điện ước tính sẽ lên tới 32,7 tỷ USD, với chi phí cho các thiết bị chính khoảng 24,5 tỷ USD (tua bin, máy phát, lò hơi), còn lại 8,2 tỷ USD là cho các thiết bị phụ trợ trong đó có hệ thống bốc dỡ, vận chuyển than. “Như vậy, nhu cầu cung cấp thiết bị cho các nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam vẫn rất lớn” - TS. Phan Đăng Phong khẳng định.
Tuy nhiên, để tiếp tục nhân rộng mô hình với các dự án tương tự rất cần một cơ chế để bảo vệ thị trường từ Chính phủ cho các đơn vị cơ khí trong nước như quy định tỷ lệ trong nước thực hiện tối thiểu 50% với các dự án nhiệt điện được đầu tư tại Việt Nam.
Các đề tài thành công đã tạo động lực thúc đẩy các nhà khoa học và các nhà quản lý cùng nghiên cứu, ứng dụng vào sản xuất; tạo công ăn, việc làm cho lao động tại thị trường Việt Nam. |