Liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung bộ trong bối cảnh mới
Chủ trì Tọa đàm có đồng chí Vũ Đại Thắng, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình; đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo.
Tham dự Tọa đàm có các đồng chí đại diện lãnh đạo các tỉnh vùng Bắc Trung bộ; đại diện một số ban, bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập Đề án; một số viện, trường, chuyên gia, nhà khoa học.
Tọa đàm "Liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung Bộ trong bối cảnh mới” nằm trong chuỗi các hoạt động của Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW, nhằm đánh giá kết quả liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung Bộ trong thời gian qua; những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ nhằm thúc đẩy phát triển liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung Bộ. Đề xuất các quan điểm, giải pháp, cơ chế, chính sách, thu hút nguồn lực (tài chính, khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực…) để thúc đẩy liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung Bộ trong thời gian tới. Cung cấp thêm các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW. Theo đó, ngày 16/8/2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 (Nghị quyết 39-NQ/TW). Sau đó, ngày 02/8/2012, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 25-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW.
Về định hướng tổ chức không gian phát triển: Căn cứ vào điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội và nhằm định hướng phát triển phù hợp với tiềm năng, lợi thế tạo hiệu ứng phát triển cho cả vùng, Nghị quyết 39-NQ/TW và Quy hoạch của Chính phủ chia Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ thành 03 tiểu vùng, gồm: Tiểu vùng Nam Trung Bộ; tiểu vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; tiểu vùng Bắc Trung Bộ.
Toàn cảnh buổi toạ đàm "Liên kết phát triển tiểu vùng Bắc Trung bộ trong bối cảnh mới" |
Tiểu vùng Bắc Trung Bộ bao gồm 05 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị. Vùng nằm kề bên vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, trên trục giao thông Bắc Nam về đường sắt, đường bộ, đường Hồ Chí Minh, đường ven biển; kết nối với nước bạn Lào qua 04 cửa khẩu biên giới (Cầu Treo, Cha Lo, Lao Bảo), là mắt xích quan trọng trong việc hình thành các hành lang kinh tế tiểu vùng sông Mêkông mở rộng. Với điều kiện tự nhiên của các tỉnh trong vùng chia thành 2 vùng rõ rệt là khu vực phía Tây và khu vực phía Đông (ven biển), khu vực này: thuận lợi cho phát triển các ngành kinh tế biển như Du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới, do vậy, tiểu vùng Bắc Trung Bộ có vai trò ngày càng lớn đối với vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ cũng như đối với cả nước.
Thực hiện các văn kiện Đại hội Đảng và các Nghị quyết của Đảng, trong thời gian qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và bộ ngành Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng, tiểu vùng.
Sau gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW, các cấp, các ngành, nhất là các địa phương trong tiểu vùng đã bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết 39-NQ/TW và Kết luận số 25- KL/TW; vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành; cụ thể hóa nội dung Nghị quyết thành các kế hoạch, chương trình, đề án và đã hoàn thành được phần lớn các chỉ tiêu, mục tiêu đề ra trên địa bàn để triển khai thực hiện; nhờ đó, các cấp, các ngành, các địa phương đã nhận thức ngày càng rõ hơn vệ trí, vai trò tầm quan trọng của tiểu vùng; tư duy về phát triển vùng, tiểu vùng cũng đã có nhiều đổi mới; tiềm năng, lợi thế của tiểu vùng từng bước được khai thác hợp lý, phát huy hiệu quả. Đảng bộ và chính quyền các địa phương đã có nhiều nỗ lực vươn lên, chủ động khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, về nguồn lực con người để phát triển. Nhiều địa phương đã trở thành điểm sáng của cả nước về phát triển kinh tế - xã hội. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ngày càng tăng. Kết cấu hạ tầng được dần đầu tư mở rộng theo hướng hiện đại. Hệ thống đô thị hình thành, phát triển. Các khu du lịch ven biển, sinh thái, chất lượng cao, có thương hiệu dần trở thành động lực quan trọng cho phát triển. Kinh tế biển, đảo được chú trọng và khai thác hiệu quả hơn. Một số vùng sản xuất thâm canh cây trồng, vật nuôi tập trung, có sản lượng lớn phục vụ sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu. Văn hóa - xã hội có bước phát triển và đạt được những kết quả tích cực. Giáo dục - đào tạo, y tế phát triển nhanh. Công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội có nhiều tiến bộ. Đời sống nhân dân tiểu vùng từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, tiểu vùng Bắc Trung Bộ chưa đạt được các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ đã đề ra trong Quyết định số 1114/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chất lượng tăng trưởng chưa bền vững, năng lực canh tranh chưa cao. Mặc dù nhiều công trình, dự án đã huy động đầu tư từ ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước, nhưng do xuất phát của nền kinh tế thấp, chưa phát huy hết lợi thế cạnh tranh, môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn nên nguồn lực đầu tư xây dựng và đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng của các địa phương trong vùng chưa đáp ứng đủ và kịp thời cho các mục tiêu phát triển đề ra.
Nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc tổng kết các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh các vùng kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương được giao chủ trì Đề án Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW, ngày 02/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39, trên cơ sở đó tham mưu Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết mới về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.