Hàng tồn kho sản xuất trên toàn thế giới đạt kỷ lục 1,8 nghìn tỷ USD
Các nhà sản xuất từ Samsung đến Ford đang chứng kiến lượng hàng tồn kho tăng mạnh do nhu cầu tiêu dùng suy yếu trong bối cảnh lạm phát gia tăng, gây ra lo ngại rằng các công ty sẽ phải điều chỉnh sản xuất trước tình hình suy thoái kinh tế kéo dài.
Theo phân tích của tạp chí Nikkei Nhật Bản, ngày 29/6, hàng tồn kho do 2.349 công ty sản xuất toàn cầu niêm yết nắm giữ đạt mức kỷ lục 1,87 nghìn tỷ USD vào cuối tháng 3, tăng 97 tỷ USD so với ba tháng trước đó. Đó là mức cao nhất trong 10 năm hoặc kể từ khi có dữ liệu so sánh.
Sự tích tụ hàng tồn kho này có thể bắt nguồn từ các yếu tố như khó di chuyển sản phẩm do gián đoạn chuỗi cung ứng và một số công ty cố tình dự trữ trong trường hợp họ gặp phải tình trạng thiếu hàng. Một số doanh nghiệp cũng tích trữ hàng dự trữ với dự đoán nhu cầu tiêu dùng tăng lên với sự mở cửa trở lại của các nền kinh tế sau sự suy giảm các ca nhiễm Covid-19.
Vấn đề hiện nay là lượng hàng tồn kho cao cùng với việc tiêu thụ chậm, có thể khiến các nhà sản xuất ngừng sản xuất và làm trầm trọng thêm tình trạng suy giảm kinh tế đang diễn ra. Nhu cầu tiêu dùng chậm lại đặc biệt đáng chú ý ở các mặt hàng điện tử, chẳng hạn như điện thoại thông minh và máy tính cá nhân, khi người tiêu dùng cảm thấy sức mua của họ giảm do lạm phát trong bối cảnh giá hàng hóa toàn cầu tăng. Mức tăng 97 tỷ USD lớn hơn mức tăng 83 tỷ USD được ghi nhận trong quý đầu tiên của năm 2018, khi mức tồn kho trên toàn thế giới tăng trong bối cảnh căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng.
Tính theo tỷ lệ phần trăm, tỷ lệ tăng trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 3/2022 là 5,3%, lớn nhất sau mức tăng 6,1% trong tháng 1 đến tháng 3/2018. Điều này dẫn đến vòng quay hàng tồn kho dài hơn, với tỷ lệ giảm 3% trong quý đầu tiên của 2022 so với quý trước. Các doanh nghiệp phải mất 81,1 ngày để bán hết hàng, tăng 3,6 ngày so với quý 4 và lâu nhất trong 10 năm qua, không bao gồm năm 2020 khi doanh số bán hàng giảm mạnh do đại dịch.
Hàng tồn kho tăng ở tất cả 12 lĩnh vực sản xuất. Ba lĩnh vực chiếm 61% tổng số - điện tử, ô tô và máy móc. Điện tử ghi nhận mức tăng đột biến nhất, tăng 26,7 tỷ USD, tương đương 6%, lên 457 tỷ USD. Phân tích các cấp độ công ty riêng lẻ cho thấy, nguyên vật liệu thô đạt được lợi nhuận lớn nhất.
Trong số tất cả các công ty được đề cập trong phân tích, Samsung Electronics ghi nhận mức tăng trưởng hàng tồn kho lớn nhất tính theo giá trị là 4,4 tỷ USD hay tăng 13% so với quý trước lên 39,2 tỷ USD. Trong số đó, 2,5 tỷ USD là do nguyên liệu thô tăng. Samsung đã báo cáo doanh số bán hàng không đổi trong quý đầu tiên, so với quý trước đó. Samsung đã bị gián đoạn vào tháng 4 trong việc mua nguyên liệu thô để sản xuất bộ nhớ và dự định tích trữ hàng tồn kho để tránh những vấn đề như vậy tiếp tục xảy ra.
Tại nhà sản xuất PC Đài Loan Asus, doanh số bán hàng giảm 9% trong khi hàng tồn kho tăng 18%, do nguyên liệu và thành phẩm đều tăng khoảng 500 triệu USD. Asus đã tăng dự trữ vật liệu điện tử, nhưng doanh số bán hàng ở châu Âu cũng chậm lại do xung đột ở Ukraine. Công ty này dự định giữ mức tồn kho hiện tại.
Trong ngành công nghiệp ô tô, mức tồn kho tăng 14,8 tỷ USD, tương đương 6%, lên 273 tỷ USD, do Ford Motor bị sụt giảm doanh số 8% và lượng hàng tồn kho tăng 21% lên 14,6 tỷ USD, cao nhất trong 25 năm. Có tới 53.000 phương tiện bị bỏ dở do thiếu các bộ phận. Ford cho biết, việc tích tụ hàng tồn kho đang đè nặng lên dòng tiền của công ty.
Tại Mercedes-Benz, cổ phiếu tăng 9%. Nhà sản xuất ô tô Đức đã chứng kiến sự gia tăng các sản phẩm dở dang một phần do thiếu các bộ phận và cũng do các vấn đề vận chuyển trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Ukraine.
Về mặt tích cực, hàng tồn kho cao trên toàn thế giới được cho là sẽ không sớm dẫn đến tình trạng khủng hoảng tiền mặt nghiêm trọng. Lượng tiền mặt mà 2.349 công ty nắm giữ ở mức 2,2 nghìn tỷ đôla vào cuối tháng 3, gấp 2,3 lần doanh thu hàng tháng của họ. Samsung tự hào rằng họ đang nắm giữ 100 tỷ USD tiền mặt, hoặc tương đương với doanh số bán hàng trong 5 tháng. Toyota Motor có 44,19 tỷ USD tiền mặt, trị giá 2,3 tháng bán hàng.
Tuy nhiên, các công ty vẫn đúng khi thận trọng. Cả Mỹ và khu vực đồng euro đều chứng kiến chỉ số quản lý mua hàng của họ giảm xuống còn khoảng 50, mức hòa vốn, vào tháng 6, trong khi ở Trung Quốc, chỉ số này duy trì dưới 50 trong ba tháng liên tiếp cho đến tháng 5. Bất kỳ con số nào dưới 50 cho thấy sự suy giảm kinh tế.