Xây dựng Luật Lưu trữ (sửa đổi): Phát huy giá trị tài liệu tư để phục vụ lợi ích quốc gia
Thực hiện Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13 tháng 6 năm 2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022 và theo phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ được giao chủ trì xây dựng dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi).
Ngày 7/5, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đã tổ chức gặp gỡ báo chí để thông tin về xây dựng dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi).
Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước cho biết, việc xây dựng Luật Lưu trữ (sửa đổi) nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về việc ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực lưu trữ, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lưu trữ, góp phần thực hiện Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính và hội nhập quốc tế.
Quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong quá trình xây dựng Luật Lưu trữ (sửa đổi), Bộ Nội vụ đã thực hiện tổng kết thi hành Luật Lưu trữ năm 2011; tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo, xin ý kiến chuyên gia, nhà khoa học; tổ chức khảo sát thực tế; gửi lấy ý kiến góp ý, ý kiến phản biện bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Hiện nay, Bộ Nội vụ đang tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi) để trình Chính phủ vào tháng 6/2023.
Dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) dự kiến gồm 9 Chương, 48 Điều. Bên cạnh những nội dung kế thừa của Luật Lưu trữ năm 2011, dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) tập trung vào 04 chính sách đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 152/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ, gồm: Về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ; về tài liệu lưu trữ điện tử; về quản lý tài liệu lưu trữ tư; về hoạt động dịch vụ lưu trữ.
Trong đó, chính sách về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ bổ sung các quy định về thẩm quyền quản lý tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam theo hướng phân định rõ thẩm quyền quản lý cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ; tài liệu Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam giữa cơ quan có thẩm quyền của Đảng và cơ quan quản lý Nhà nước về lưu trữ; phân cấp quản lý tài liệu lưu trữ giữa cơ quan lưu trữ của Nhà nước ở trung ương và ở địa phương; thẩm quyền quản lý tài liệu các ngành quốc phòng, công an, ngoại giao và thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ cấp xã.
Về quản lý tài liệu lưu trữ tư, quy định giá trị của tài liệu lưu trữ tư; trách nhiệm của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc quản lý, sử dụng tài liệu lưu trữ tư; thành lập, tổ chức lại, giải thể và hoạt động của tổ chức lưu trữ tư. Các quy định nêu trên nhằm góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về việc lưu giữ, bảo vệ, bảo quản và phát huy giá trị tài liệu tư để phục vụ lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia.
Về hoạt động dịch vụ lưu trữ, quy định về hoạt động dịch vụ lưu trữ và điều kiện hoạt động dịch vụ lưu trữ; yêu cầu kinh doanh dịch vụ bảo quản tài liệu lưu trữ giấy và tài liệu lưu trữ trên các vật mang tin khác; quy định thẩm quyền và đối tượng được cấp, cấp lại, thu hồi Chứng chỉ hành nghề lưu trữ. Đặc biệt, việc tham gia của các doanh nghiệp vào hoạt động bảo quản tài liệu lưu trữ giấy và tài liệu lưu trữ trên các vật mang tin khác phải đáp ứng yêu cầu chặt chẽ của pháp luật để bảo đảm an toàn thông tin tài liệu lưu trữ, tránh nguy cơ mất tài liệu, mất dữ liệu; lộ lọt thông tin, dữ liệu không được sao lưu.
Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - ông Đặng Thanh Tùng thông tin về Luật Lưu trữ (sửa đổi) |
Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - ông Đặng Thanh Tùng nhấn mạnh, nói đến lưu trữ, chúng ta thường hiểu ngay là bảo quản các tài liệu nằm trên giấy, hình ảnh, băng đĩa… Tuy nhiên, hiện nay chúng ta phải nghĩ đến việc làm sao để ngành lưu trữ đáp ứng nhu cầu của đất nước trong thời kỳ mới, cụ thể là lưu trữ dữ liệu lớn.
Thời gian qua, theo ông Đặng Thanh Tùng, công tác quản lý nhà nước của ngành lưu trữ đang gặp khó khăn vì luật chưa bao quát được các khái niệm mới. Trong đó, Luật Lưu trữ năm 2011 chỉ xác định phạm vi lưu trữ tài liệu, mà thông tin trên tài liệu rất khác với dữ liệu, muốn quản lý được thì Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước phải kết hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông.
Thời điểm này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các chương trình, đề án, chiến lược thực hiện chủ trương của Đảng về ‘đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, trong đó có lĩnh vực lưu trữ. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp lý các lĩnh vực đang được bổ sung, sửa đổi. "Do đó, việc xây dựng, ban hành Luật Lưu trữ (sửa đổi) là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính và hội nhập quốc tế"- ông Tùng nhấn mạnh.
Luật Lưu trữ được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 11/11/2011 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2012) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về lưu trữ của Bộ Nội vụ và của các bộ, ngành, địa phương
Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Lưu trữ năm 2011 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, một số quy định không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Nên, việc xây dựng, ban hành Luật Lưu trữ (sửa đổi) là hết sức cần thiết nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về việc ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực lưu trữ, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lưu trữ, khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn công tác lưu trữ hiện nay,
Luật Lưu trữ (sửa đổi) dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XV (tháng 10/2023); trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XV (tháng 5/2024); thời gian Luật có hiệu lực là từ 01/01/2025. |