Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ: Trọng tâm phát triển các khu kinh tế, ngành công nghiệp có lợi thế
Hội thảo "Phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" đã diễn ra sáng 12/9, tại Hà Nội. Hội thảo do Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và Ban Kinh tế Trung ương tổ chức.
Ông Trần Tuấn Anh - Trưởng ban Kinh tế Trung ương phát biểu tại hội thảo |
Tốc độ tăng trưởng công nghiệpthấp
Phát biểu tại hội thảo, ông Trần Tuấn Anh - Trưởng ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ (Vùng) là 1 trong 6 vùng kinh tế - xã hội của cả nước; gồm 14 tỉnh, thành phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận; là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Sau hơn 18 năm thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW, với sự quan tâm chỉ đạo đặc biệt, nguồn lực đầu tư của Trung ương cùng sự chủ động, nỗ lực cố gắng vươn lên của các địa phương, việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh Vùng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế Vùng tăng trưởng đạt 7,3%/năm trong giai đoạn 2005 - 2020, cao hơn trung bình cả nước; quy mô kinh tế được mở rộng, đạt 1.157 nghìn tỷ đồng vào năm 2020, chiếm 14,53% GDP cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, thu ngân sách tăng khá. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; chất lượng giáo dục, đào tạo từng bước được nâng cao.
“Có thể nói, Nghị quyết 39-NQ/TW đã đi vào cuộc sống; phần lớn các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết đã cơ bản hoàn thành”- ông Trần Tuấn Anh đánh giá.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Trưởng ban Kinh tế Trung ương cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế của Vùng.
Cụ thể, Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ vẫn phát triển dưới mức trung bình cả nước; một số lợi thế về địa kinh tế và kinh tế biển chưa được khai thác và phát huy hiệu quả. Mặc dù chiếm trên chiếm 28% diện tích tự nhiên và chiếm 20,8% dân số cả nước nhưng quy mô kinh tế của vùng có tỷ trọng nhỏ, chiếm 14,53% GDP cả nước; GRDP/người của vùng thấp, chỉ bằng bằng 0,69 lần bình quân của cả nước.
Trưởng ban kinh tế nhìn nhận, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào đầu tư từ ngân sách nhà nước và vốn FDI. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vùng còn chậm, chưa có sự đột phá; quy mô công nghiệp của Vùng còn nhỏ và có tốc độ tăng trưởng công nghiệp thấp; tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn còn khá lớn, sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún; phát triển du lịch chủ yếu theo chiều rộng, thiếu sản phẩm du lịch có chất lượng cao.
Nguồn vốn đầu tư mới chỉ đáp ứng một phần yêu cầu phát triển; hạ tầng kinh tế, xã hội còn thiếu, yếu, chưa liên thông; đầu tư phát triển các Khu Kinh tế ven biển còn hạn chế; các trung tâm logistics, cảng cạn ICD phát triển chậm; hiệu quả hoạt động của các cụm công nghiệp chưa cao; một số dự án lớn, dở dang chậm được xử lý.
Đề xuất ban hành một Nghị quyết mới cho vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ
Trong bối cảnh tình hình mới, Bộ Chính trị giao Ban Kinh tế Trung ương chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai Đề án "Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW và Kết luận số 25-KL/TW, ngày 2/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW".
Nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra là tham mưu, đề xuất với Bộ Chính trị ban hành một Nghị quyết mới nhằm định hướng phát triển cho vùng Bắc Trung bộ, Duyên hải Trung bộ trong thời gian tới, phù hợp với bối cảnh tình hình mới và yêu cầu, đòi hỏi mới trong phát triển của Vùng và cả nước. Nghị quyết mới cũng là cơ sở, căn cứ chính trị để Chính phủ, các bộ, ngành ban hành các cơ chế, chính sách mới, các địa phương định hướng và quy hoạch nhằm khai thác, phát huy ở mức cao nhất tiềm năng, lợi thế cho phát triển nhanh, bền vững Vùng, các địa phương trong Vùng thời gian tới; thực hiện nhiệm vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030.
Nhiệm vụ trọng tâm là nâng cao hiệu quả phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp lọc hóa dầu, luyện kim, sản xuất, lắp ráp ô tô. Phát triển nhanh, đồng bộ năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Tăng cường liên kết vùng, tiếp tục hình thành, phát triển hệ thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển, du lịch sinh thái mang tầm khu vực và quốc tế. Phát huy hiệu quả các hành lang kinh tế Đông - Tây; phát triển các cảng biển và dịch vụ cảng biển, hạ tầng và các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá.
Đáng chú ý, tham luận của đại Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đề cập, về công nghiệp cần đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế của vùng như: Đóng tàu và sửa chữa tàu thuyền, cơ khí chế tạo, dệt may, da giầy, sản xuất xi măng, chế biến thủy sản, mía đường,...
Từng bước tạo dựng, phát triển ngành điện tử và công nghệ thông tin để hỗ trợ cho các ngành Công nghiệp khác phát triển. Tập trung nguồn lực để đẩy nhanh việc phát triển công nghiệp hóa dầu thành một trong các trụ cột công nghiệp của vùng và cả nước. Tập trung xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng các khu kinh tế nhằm thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Cùng với định hướng phát triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp và nhóm ngành, dự án ưu tiên thu hút FDI, các tỉnh thuộc vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền trung cũng đã xác định nhóm các biện pháp trọng tâm trong xúc tiến thu hút FDI vào vùng để thúc đẩy phát triển công nghiệp. "Do vậy, trong thời gian tới, vùng cần tập trung tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thực hiện có hiệu quả nội dung cải cách thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư ngoài ngân sách, tháo gỡ các nút thắt trong triển khai thực hiện dự án và sản xuất kinh doanh, tạo động lực cho doanh nghiệp, nhà đầu tư phát triển, triển khai có hiệu quả các dự án trên địa bàn tỉnh trong vùng đẩy mạnh phát triển công nghiệp"- tham luận của đại Đại học Quốc gia Hà Nội chỉ ra..
Đề xuất ý kiến tại hội thảo, TS. Trần Du Lịch- Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia cho rằng, cần tập trung vào những thách thức đối với Vùng; trong đó, thách thức lớn nhất là nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lượng chất lượng cao.
“Liên kết vùng cần tập trung vào các vấn đề liên kết phát triển giao thông; hệ thống giáo dục, riêng với cơ chế liên kết vùng, cần có Hội đồng tư vấn để phát triển Vùng”- TS. Trần Du Lịch đề xuất.
TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cũng nêu quan điểm, cần cải thiện mạnh mẽ, nhất quán môi trường kinh doanh,liên tục theo dõi, đánh giá, chỉ đạo thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, chỉ đạo xử lý các vấn đề, tháo bỏ rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.
TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương góp ý kiến tại hội thảo |
Trong kế hoạch 5 năm và hàng năm, phải có chỉ tiêu về số lượng doanh nghiệp thành lập mới trên địa bàn tỉnh; có chương trình khuyến khích, hỗ trợ, nâng đỡ thành lập doanh nghiệp mới để đạt mục tiêu nói trên. Đồng thời, có chương trình chuyên đề về khuyến khích, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp trong ngành sản xuất, chế tác chế tạo và phát triển chuỗi cung ứng. Các doanh nghiệp thành lập trong lĩnh vực sản xuất, chế tác chế tạo sẽ kéo theo thành lập mới trong các ngành hạ nguồn và dịch vụ hỗ trợ khác.
Trước đề xuất, góp ý của đại biểu, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nêu rõ, Nghị quyết 39-NQ/TW là chủ trương, định hướng đúng đắn của Đảng, là cơ sở quan trọng để các bộ, ngành, địa phương ban hành các cơ chế, chính sách, bổ sung nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội Vùng, các địa phương trong Vùng. Sau hơn 18 năm triển khai Nghị quyết, kinh tế - xã hội Vùng, các địa phương đã có nhiều thay đổi tích cực; đời sống của nhân dân được nâng cao.
Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho biết, liên kết phát triển vùng là tất yếu khách quan, là một trong những động lực tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, cần thay đổi về nhận thức, tư duy, hành động của cả hệ thống chính trị; cần đi từ đơn giản đến phức tạp với nhiều bên tham gia, trong đó vai trò của Nhà nước là thúc đẩy, hỗ trợ và có thể là 1 đối tượng liên kết; tập trung vào liên kết trong xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch; liên kết về phát triển hệ thống đô thị, các tổ hợp du lịch - dịch vụ, cảng biển; liên kết trong đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; liên kết phát triển du lịch; liên kết trong đầu tư xây dựng các dự án có tác động lan tỏa đến vùng, liên vùng...
Các đại biểu đều thống nhất đề nghị Ban Chỉ đạo tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị ban hành một Nghị quyết mới cho vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với những chủ trương, định hướng phù hợp bối cảnh, tình hình mới; đề xuất bổ sung cơ chế, chính sách mới để tạo động lực cho toàn Vùng.
Ông Trần Tuấn Anh cho biết, Ban Chỉ đạo giao Thường trực Tổ biên tập chắt lọc, tổng hợp kết quả Hội thảo để bổ sung, cập nhật vào trong Báo cáo tổng kết Nghị quyết 39- NQ/TW đảm bảo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ tổng kết; tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, định hướng phù hợp nhằm phát triển vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ trong thời gian tới.
Chiều cùng ngày, cũng tại Ban Kinh tế Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 39-NQ/TW tổ chức Hội nghị Góp ý Dự thảo báo cáo “Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ đến năm 2010 và Kết luận số 25-KL/TW, ngày 02/8/2012 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW”. Hội nghị để các thành viên Ban Chỉ đạo tiếp tục tham gia ý kiến, thống nhất các nội dung để Thường trực Tổ Biên tập tiếp tục hoàn thiện các dự thảo và báo cáo Bộ Chính trị theo Kế hoạch đề ra, dự kiến vào giữa tháng 9/2022. |