
Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử, tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình
Bài viết của tác giả Nguyên Đình được đăng tải trong chuyên mục ngành Công Thương trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Báo Công Thương điện tử, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình: Thấy gì từ những cuộc cắt giảm lịch sử?
Để kế thừa và phát huy sự nghiệp cách mạng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tuyên bố thời điểm tinh gọn bộ máy trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Từ kinh nghiệm của Việt Nam và thế giới…
Xuyên suốt quá trình sắp xếp bộ máy từ thời kỳ Đổi mới (năm 1986) đến nay, việc sáp nhập những cơ quan trung ương, bao gồm bộ ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng, trùng lặp đã nhiều lần được thực hiện. Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn lịch sử, bộ máy Chính phủ đều được sắp xếp để phù hợp với thực tiễn.
Chính phủ từng có 36 bộ, ngành trong giai đoạn 1992-1997, sau đó tăng lên 48 đầu mối vào nhiệm kỳ 1997-2002. Sang giai đoạn 2002-2007, số lượng giảm xuống còn 38 đầu mối, gồm 26 bộ và 12 cơ quan thuộc Chính phủ.
![]() |
Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit |
Nhìn lại quá trình lịch sử, Bộ Công Thương cũng là một trong những ví dụ điển hình về tinh thần sắp xếp bộ máy chính trị để tạo động lực phát triển. Cụ thể, Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Bộ Quốc dân Kinh tế (tiền thân của Bộ Công Thương) phụ trách các Sở Kinh tế, các Nha chuyên môn: Nha Thường vụ, Nha Khoáng chất và Kỹ nghệ, Nha Tiếp tế...
Hội nghị triển khai các quyết định về công tác cán bộ của Bộ Công Thương năm 2023. Ảnh: Moit
Để phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Bộ Công Thương cũng được chia tách, sáp nhập như Bộ Điện lực, Bộ Mỏ và Than; chia Bộ Lương thực và Thực phẩm thành hai bộ: Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực. Sau đó, các cơ quan thuộc ngành Công Thương hiện nay tiếp tục được tách theo lĩnh vực cụ thể như Bộ Ngoại thương và Uỷ ban Kinh tế đối ngoại; sáp nhập Tổng cục Điện tử và Kỹ thuật tin học vào Bộ Cơ khí và Luyện kim,…
Và đến tháng 7/2007, trong cuộc sắp xếp, sáp nhập bộ, ngành theo hướng bộ đa ngành, đa lĩnh vực, Bộ Công nghiệp sáp nhập với Bộ Thương mại thành Bộ Công Thương. Sự kiện này được diễn ra sau khi nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh phát biểu tại Lễ bế mạc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư khóa X vào cuối tháng 1/2007: "Đối với tổ chức bộ máy của Chính phủ, cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo tinh thần cải cách hành chính, bảo đảm tinh gọn và hợp lý hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Chính phủ trong giai đoạn mới, phù hợp với cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả".
Cũng vào thời điểm đó, Bộ Văn hóa - Thông tin được tách thành 2 ngành, trong đó ngành văn hóa sáp nhập với Ủy ban Thể dục thể thao và Tổng cục Du lịch tạo nên Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch. Bên cạnh đó, Cục Báo chí, Cục Xuất bản được sáp nhập vào Bộ Bưu chính Viễn thông trở thành Bộ Thông tin và Truyền thông.
Sau nhiều lần sắp xếp, sáp nhập, bộ máy Chính phủ đã được giữ ổn định từ nhiệm kỳ 2007 - 2011 đến nay, với 30 đầu mối gồm 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.
Nhìn sang thế giới, việc tinh gọn bộ máy đã tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Điển hình, Nhật Bản và Trung Quốc là hai quốc gia có hệ thống chính trị, văn hóa và kinh tế khác biệt, nhưng cả hai đều có những nỗ lực đáng chú ý trong việc tinh gọn bộ máy nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời đại mới.
Năm 2001, Nhật Bản thực hiện một cuộc cải tổ lớn khi số lượng các bộ và cơ quan trung ương giảm từ 128 cục xuống còn khoảng 90 cục. Các bộ có chức năng tương đồng được sáp nhập để tránh chồng chéo. Chẳng hạn, Bộ Y tế và Bộ Phúc lợi sáp nhập thành Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi. Bộ Giao thông và Bộ Xây dựng sáp nhập thành Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch.
Cùng với đó, Nhật Bản ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai chính phủ điện tử từ những năm 2000, giúp giảm bớt các thủ tục giấy tờ phức tạp và cắt giảm nhân sự không cần thiết. Chính phủ quốc gia này cũng đặt ra giới hạn biên chế, đồng thời áp dụng cơ chế đánh giá năng lực để giảm số lượng công chức, tập trung vào chất lượng. Tinh gọn bộ máy giúp Nhật Bản giảm chi tiêu hành chính và tăng hiệu quả quản lý trong các lĩnh vực như phúc lợi, giáo dục và giao thông.
Về Trung Quốc, để tinh gọn bộ máy, quốc gia này đã thực hiện hàng loạt cải cách kể từ cuối thế kỷ XX. Năm 2018, Quốc vụ viện Trung Quốc quản lý một hệ thống khoảng 40 cơ quan bao gồm các bộ và ủy ban. Tuy nhiên, sau cuộc cải cách, Trung Quốc đã tiến hành sáp nhập và giảm số lượng các cơ quan này xuống chỉ còn 26.
Đồng thời, Chính quyền Trung ương Trung Quốc yêu cầu giảm số lượng cán bộ trong các cơ quan chính phủ, đặc biệt ở cấp địa phương. Điều này khuyến khích xã hội hóa một số dịch vụ công.
Từ những ví dụ trong nước và quốc tế, có thể thấy rằng, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là yêu cầu tất yếu của sự phát triển mà còn trở thành yếu tố then chốt giúp tối ưu hóa hiệu quả quản lý và đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại. Đối với Việt Nam, quá trình sắp xếp, sáp nhập các bộ, ngành đã tạo nên những bước tiến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và cải thiện khả năng quản lý nhà nước. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những thành tựu này, cần kiên định với mục tiêu xây dựng một bộ máy tinh gọn, hiệu quả, song song với việc ứng dụng công nghệ số và cải cách hành chính, nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thời đại mới.
Trong khi đó, bài học từ Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy rằng, việc xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tránh chồng chéo và lãng phí nguồn lực là yếu tố "sống còn" trong việc tinh gọn bộ máy. Đồng thời, ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ góp phần giảm thiểu thủ tục hành chính mà còn nâng cao tính minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, lấy người dân làm trung tâm luôn là kim chỉ nam trong mọi cải cách, bởi cuối cùng, mục tiêu lớn nhất của bộ máy nhà nước chính là phục vụ nhân dân một cách hiệu quả và thiết thực.
Nhìn về tương lai theo thực tiễn tại Việt Nam, việc tinh gọn bộ máy không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài để xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch và linh hoạt, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Đến chỉ đạo mang tính lịch sử
Phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 25/11, Tổng Bí thư Tô Lâm cho biết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu, xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong triển khai chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành, trước hết là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng". Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở; quyết tâm hoàn thành việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW và báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị trong quý I/2025.
Như vậy, việc sắp xếp, tổ chức lại hệ thống chính trị lần này được nhận định rằng có tính cấp bách, không thể chậm trễ. Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị sẽ được hoàn thành vào quý I/2025. Mốc thời gian này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi chỉ hơn nửa năm nữa, Đại hội Đảng các cấp cơ sở sẽ bắt đầu diễn ra, tiến tới Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIV dự kiến diễn ra vào năm 2026.
Nếu phương án triển khai muộn, việc sắp xếp công tác nhân sự sẽ trở nên phức tạp, đi ngược với quy luật. Triển khai tinh gọn bộ máy trước khi Đại hội Đảng lần thứ XIV diễn ra góp phần giúp hệ thống chính trị đủ điều kiện để bước vào giai đoạn mới, và như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đó là "kỷ nguyên vươn mình của dân tộc".
Đáng chú ý, tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng", Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở khi thực hiện tinh gọn hệ thống chính trị không có nghĩa là công cuộc sẽ diễn ra một cách cập rập, khó kiểm soát. Mà ngược lại, hoạt động triển khai tinh gọn gấp rút nhưng vẫn đảm bảo thông suốt từ Trung ương đến địa phương, không cầu toàn mà làm tới đâu rút kinh nghiệm tới đó. Điều đó chứng tỏ tính sáng tạo, tính khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc cách mạng lần này.
Vì vậy, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, quá trình thực hiện cần theo dõi để phát hiện, nhân rộng những cách làm hay, hiệu quả, uốn nắn và kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh, đảm bảo việc triển khai theo đúng mục tiêu, yêu cầu và tiến độ đã đề ra.
Với quyết tâm chính trị cao, người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã có tuyên bố mang tính lịch sử về cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị. Mô hình tổ chức tổng thể hệ thống chính trị của nước ta từ năm 1945 đến nay gồm ba khối Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng các tổ chức chính trị xã hội.
Cơ chế vận hành Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vẫn sẽ là nguyên tắc bao trùm khi tinh gọn bộ máy. Tuy nhiên, sau hàng chục năm vận hành, hệ thống chính trị đã xuất hiện những tồn tại, một số vấn đề không còn phù hợp với thực tiễn, dẫn tới việc cần soi xét kỹ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức để có những quyết định chính xác, hiệu quả.
Vì cuộc cách mạng có thể đi kèm với những hy sinh lợi ích cá nhân. Nên Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề cập, nhiệm vụ sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy là công việc rất khó khăn, nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi con người trong từng tổ chức. Do đó, đòi hỏi sự đoàn kết, quyết tâm cao, dũng cảm và cả sự hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung.
Kế thừa và đột phá trong thực hiện nghị quyết của Đảng
Theo chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, việc tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị sẽ bắt đầu bằng việc tổng kết Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 25/10/2017. Đây được nhận định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Chủ trương này chỉ ra rằng việc sắp xếp lại hệ thống chính trị để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc không chỉ có tính nhất thời, mà là sự kế thừa và phát huy những di sản của sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
Nghị quyết số 18/NQ-TW tại Hội nghị lần thứ XI Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII cũng là sự đúc kết tỉ mỉ, nhìn nhận rõ, minh bạch tồn tại của hệ thống chính trị. Nghị quyết nêu rằng, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức còn chồng chéo, trùng lặp. Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý và đồng bộ. Vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc bỏ sót nhiệm vụ…
Cùng với đó, mặc dù đã quan tâm đầu tư nhiều cho kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý nhưng hiệu quả tác động vào việc tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và tinh giản biên chế chưa tương xứng. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước rất lớn, nhất là ở các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách cấp xã và ở thôn, tổ dân phố; chính sách tiền lương còn bất cập.
Đặc biệt, tinh thần gấp rút thực hiện tinh gọn bộ máy chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm cũng thể hiện sự nhất quán theo quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết. Cụ thể, nghị quyết nêu rõ việc sắp xếp bộ máy cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay; những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
Nhìn lại lịch sử, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, vị lãnh tụ V.I. Lênin cũng đặc biệt quan tâm đến xây dựng tổ chức hệ thống chính trị của chế độ mới. Người đã để lại những chỉ dẫn mang tính lý luận, thực tiễn vẫn còn có giá trị thời sự đến ngày nay về tầm quan trọng, tính cấp bách, nguyên tắc, phương hướng, cách thức tiến hành xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác ngoài tổ chức. Nhưng V.I.Lênin cũng cảnh báo rằng, lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức; rằng “chính ở chỗ này, ở chỗ làm nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất này, mà chúng ta đã gặp nhiều thất bại nhất và mắc nhiều sai lầm nhất”.
Theo nhà lý luận chính trị V.I Lênin, một hệ thống tổ chức có nhiều bê trễ, thậm chí hư hỏng thì không những không thực hiện được mục tiêu tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà còn làm mất lòng tin của quần chúng. Do đó, điều quan trọng là tổ chức cần chọn những người xứng đáng và phải kiểm tra việc chấp hành thực tiễn. Bởi chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì mới có thể quản lý nhà nước hiệu quả.
Như vậy, có thể kết luận rằng, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì hệ thống chính trị cần đảm bảo các yếu tố: Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả như trong bài viết mới nhất của Tổng Bí thư Tô Lâm được truyền thông trong nước và quốc tế dành nhiều lời ca ngợi.
Hoàn thiện hệ thống chính trị là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua việc thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta sẽ tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, dẫn dắt đất nước đi lên, đảm bảo sự phát triển bền vững và thịnh vượng cho quốc gia và nhân dân. Đây cũng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của mỗi cá nhân và tổ chức.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Khu thương mại tự do đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định, khu thương mại tự do sẽ đóng góp quan trọng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Sáng ngày 2/12, Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024 đã được khai mạc. Sự kiện do Bộ Công Thương phối hợp với UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức.
Sự kiện có sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh; Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu Phạm Viết Thanh. Cùng với đó là hơn 500 đại biểu gồm lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan; lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Đông Tây Nam Bộ; đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các hiệp hội, doanh nghiệp dịch vụ logistics, sản xuất và xuất nhập khẩu trong và ngoài nước, các chuyên gia và các cơ quan truyền thông, báo chí trên cả nước.
Phát biểu khai mạc sự kiện, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, logistics là ngành dịch vụ được ví như những “mạch máu”của nền kinh tế, có vai trò quan trọng trong kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hoá tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 Hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ (trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức hai con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, thời gian qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ngành dịch vụ logistics. Với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc tích cực, hiệu quả của các ban, bộ, ngành và các địa phương; đặc biệt là nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, ngành dịch vụ logistics nước ta đã có những bước phát triển khá mạnh (tăng bình quân 14-16%/năm), từng bước khẳng định được thương hiệu, vị thế của Ngành trong khu vực và thế giới. Năm 2024, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá, xếp hạng thuộc Top 10 thị trường logistics mới nổi; Top 4 thế giới về Chỉ số cơ hội logistics và Top 43 về Chỉ số hiệu quả logistics.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước; chi phí logistics còn cao, năng lực cạnh tranh thấp; sự thiếu hụt về nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thiếu tính kết nối về hạ tầng là những “điểm nghẽn” lớn, kìm hãm sự phát triển của dịch vụ logistics thời gian qua. Bên cạnh đó, những biến đổi về địa chính trị và các xu hướng kinh doanh mới (như dịch chuyển chuỗi cung ứng, thương mại điện tử xuyên biên giới, tiêu chuẩn phát triển xanh và bền vững) cùng với sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và dịch vụ logistics nói riêng.
Tiếp nối thành công của các năm trước, Diễn đàn năm nay được tổ chức với chủ đề "Khu thương mại tự do - Giải pháp đột phá thúc đẩy tăng trưởng logistics" nhằm phát đi thông điệp mạnh mẽ của Chính phủ về việc thu hút, khuyến khích đầu tư, phát triển các Khu thương mại tự do với những chính sách đủ mạnh, khả thi và cơ chế thông thoáng, hấp dẫn để tạo động lực đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và ngành dịch vụ logistics nói riêng. Bởi, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Khu thương mại tự do là một trong những lợi thế cạnh tranh quan trọng và là công cụ hữu hiệu để các quốc gia tận dụng tối đa lợi ích mà quá trình hội nhập mang lại. Thực tế những năm qua, mô hình Khu thương mại tự do đã được nhiều quốc gia (như Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc, UAE…) áp dụng rất thành công, giúp giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm và tối ưu hóa dòng chảy hàng hóa, nâng cao năng lực logistics, thu hút đầu tư nước ngoài.
Với vị trí địa lý chiến lược và tiềm năng, thế mạnh về phát triển hạ tầng cảng biển nước sâu, sân bay quốc tế, các đầu mối giao thông đường bộ, đường sắt với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các khu thương mại tự do quy mô lớn và hiện đại. Bộ Công Thương, với vai trò đầu mối quản lý nhà nước về dịch vụ logistics, đang trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2050 ; theo đó, dự thảo Chiến lược đã đề xuất nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt (trong đó có giải pháp về xây dựng Khu thương mại tự do) nhằm hiện thực hoá mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về logistics, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là những nội dung rất quan trọng, có tính thời sự thiết thực không chỉ đối với sự phát triển của ngành dịch vụ logistics Việt Nam, mà còn quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị các đại biểu từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn ở mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương, hãy tập trung trao đổi, thảo luận để làm rõ những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân (nhất là nguyên nhân chủ quan); rút ra các bài học kinh nghiệm trong phát triển dịch vụ logistics ở nước ta thời gian qua, cũng như nhận diện những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; từ đó, hiến kế, kiến nghị với cấp có thẩm quyền về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp dịch vụ logistics phát huy nội lực, tận dụng cơ hội để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu, đón đầu các xu hướng, chính sách thành lập các Khu thương mại tự do tại Việt Nam trong thời gian tới; đồng thời đề xuất các cơ chế chính sách đủ mạnh, khả thi để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển các Khu thương mại tự do, tạo động lực đột phá mới thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển nhanh, bền vững.

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu
Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu - Bài viết của phóng viên Lan Phương được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu
![]() |
Việc cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu lẫn nhau đã được cơ quan thanh tra kết luận là gây đội chi phí, phát sinh nguồn cung ảo trên thị trường (Ảnh minh hoạ: Cấn Dũng) |
Bài viết: Một số ý kiến gần đây đã nhầm lẫn, vì việc kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo do thương nhân phân phối mua bán xăng dầu lòng vòng lẫn nhau.
Vừa qua, trên một số hội, nhóm kênh mạng xã hội và truyền thông đưa thông tin chưa chính xác, chưa đầy đủ về kiến nghị cho phép hay không cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau. Để viện dẫn cho kiến nghị nên để thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau, các ý kiến nêu lập luận: Hiện vấn đề số liệu "ảo" về lượng xăng dầu tiêu thụ trên thị trường đã được giải quyết thông qua việc kết nối dữ liệu về tổng nguồn xăng dầu, tiêu thụ, tồn kho xăng dầu… về hệ thống của Bộ Công Thương.
Tuy nhiên, trên thực tế, cách hiểu này chưa chính xác, cần được hiểu đúng như sau:
Đối với quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán xăng dầu lẫn nhau như dự thảo Nghị định thay thế các Nghị định về kinh doanh xăng dầu được Bộ Công Thương xây dựng trình Chính phủ ban hành, qua các bài báo trước, Báo Công Thương đã phân tích rõ ràng rằng, quy định này xuất phát từ thực tế việc mua bán xăng dầu lẫn nhau của thương nhân phân phối thực hiện thời gian vừa qua đã được thanh tra Chính phủ kết luận là gây mua bán lòng vòng, phát sinh thêm khâu trung gian gây đội chi phí.
Các cơ quan quản lý và cả cơ quan pháp luật đã chỉ ra, nút thắt của vấn đề này là thương nhân phân phối hoàn toàn không thể tạo ra nguồn cung mới mà thực tế, họ phải đi mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối. Như vậy, nếu thương nhân phân phối xăng dầu mua bán xăng dầu lẫn nhau, sẽ làm tăng lên một nấc nữa trong hệ thống phân phối xăng dầu, gây đội chi phí. Theo kết luận của cơ quan thanh tra, việc mua bán lòng vòng qua lại đã làm tăng thêm chi phí trong khâu này là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp, là tình trạng đã xảy ra thời gian vừa qua.
Về thông tin cho rằng, các qui định mới về kết nối dữ liệu nguồn trong dự thảo Nghị định hiện nay đã "hoá giải" được con số ảo về số lượng xăng dầu trên thị trường, theo Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), lập luận này chưa chính xác. Bởi lẽ, việc kết nối dữ liệu nguồn chỉ thực hiện với thương nhân đầu mối. Nếu muốn nắm số liệu từ thương nhân phân phối mà vẫn để thương nhân phân phối mua bán xăng dầu của nhau họ sẽ báo cáo số liệu cả từ đầu mối và từ các thương nhân phân phối khác nên số nguồn sẽ bị trùng.
Cần phải nói thêm rằng, việc mua bán xăng dầu giữa các thương nhân phân phối xăng dầu với nhau trên thực tế khiến cho cùng một lượng xăng dầu đưa ra tiêu thụ trên thị trường nhưng lại nằm trong số liệu báo cáo tiêu thụ xăng dầu của nhiều thương nhân phân phối xăng dầu. Khi thương nhân báo cáo số liệu này về Bộ Công Thương, dù là qua kênh nào, cũng tạo nên con số tiêu thụ "ảo" trên thị trường, gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát nguồn cung, điều tiết thị trường.
Trong bối cảnh đó, nếu như thương nhân phân phối chỉ mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối – thương nhân có nhiệm vụ tạo nguồn, thực hiện tổng nguồn xăng dầu thì thông qua việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương (thương nhân phân phối không phải thực hiện việc kết nối này do không phải đối tượng thực hiện nhiệm vụ tạo nguồn xăng dầu), cơ quan chức năng có công cụ để kiểm tra thực tế con số tổng nguồn này từ báo cáo của thương nhân sản xuất xăng dầu trong nước, từ con số thực tế của cơ quan hải quan đối với xăng dầu nhập khẩu. Qua đó, nắm bắt được con số chính xác để có thể điều tiết được nguồn cung. Vì xét cho cùng, đối với một mặt hàng đặc biệt như xăng dầu, đảm bảo nguồn cung cho nhu cầu sử dụng của người dân là quan trọng nhất.
Thêm nữa, mục tiêu lớn nhất của việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương là phục vụ kiểm soát nguồn cung xăng dầu cho tiêu dùng trong nước. Trong khi đó, quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán lẫn nhau nhằm mục tiêu hạn chế việc tăng chi phí trong khâu trung gian, là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp gây khó khăn cho thương nhân bán lẻ. Đây là hai vấn đề khác nhau.
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS.TS Ngô Trí Long – chuyên gia kinh tế cũng nêu quan điểm: “Một số doanh nghiệp phân phối có phản hồi rằng, cơ quan quản lý đề xuất việc không cho phép mua bán xăng dầu lẫn nhau là hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng tôi cho rằng, quan điểm đó là do doanh nghiệp chỉ đứng ở góc độ của mình để nói chứ chưa nhìn một cách tổng thể. Trong trường hợp muốn tự do mua bán xăng dầu, thương nhân phân phối có thể cố gắng đáp ứng được các tiêu chí đã được quy định rõ ràng để trở thành thương nhân đầu mối và xin cấp phép. Lúc đó hoàn toàn có thể mua bán xăng dầu tự do với nhau”.
Từ kết luận của cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra về một số vụ việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh xăng dầu, có thể thấy, thời gian qua, một số thương nhân phân phối xăng dầu sử dụng hợp đồng mua bán xăng dầu để vay vốn ngân hàng rồi sử dụng nguồn vốn đó cho mục tiêu khác như đầu tư bất động sản, đầu tư chứng khoán… dẫn tới thua lỗ, gây lãng phí nguồn lực toàn xã hội. Thực tế này cần được chấn chỉnh trong các văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm hạn chế tối đa những rủi ro, lãng phí nguồn lực, đảm bảo nguồn vốn dành cho xăng dầu thực sự phục vụ mục tiêu kinh doanh xăng dầu, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Dự thảo Nghị định về kinh doanh xăng dầu đã xây dựng hệ thống phân phối xăng dầu với 3 cấp (phân khúc): Thương nhân đầu mối kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu - Thương nhân phân phối xăng dầu - Thương nhân bán lẻ xăng dầu, đồng thời, Dự thảo quy định cụ thể về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của thương nhân ở từng phân khúc. Mặt hàng xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, khi tham gia thị trường, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng các điều kiện, thực hiện quyền và nghĩa vụ ở từng phân khúc mà doanh nghiệp tham gia.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trong đó, quyền và lợi ích của người tiêu dùng ngày càng được quan tâm, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ và an toàn cả trong các giao dịch truyền thống lẫn giao dịch hiện đại.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người tiêu dùng có những đặc điểm riêng như trẻ em, học sinh, sinh viên thường xuyên gặp khó khăn, hạn chế trong quá trình tiêu dùng hàng ngày.
Trước thực tiễn đó, từ năm 2021, Bộ Công Thương đã ban hành Đề án “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế giai đoạn 2021 - 2025”. Hơn 4 năm qua, trong khuôn khổ các hoạt động của Đề án, với vai trò là đơn vị được giao nhiệm vụ triển khai, Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia đã phối hợp với nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan như: Báo Công Thương, các trường đại học trên cả nước, các doanh nghiệp,… thực hiện nhiều hoạt động có ý nghĩa và thiết thực nhằm hướng tới các nhóm người tiêu dùng yếu thế khác nhau.
Nhằm tạo diễn đàn để đại diện các cơ quan quản lý, các chuyên gia, nhà giáo cùng trao đổi, thảo luận về kết quả bước đầu, cũng như phân tích những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế, hôm nay, Báo Công Thương tổ chức chương trình Chính sách và đối thoại với chủ đề: “Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh”
Chương trình của chúng tôi đang được phát trực tiếp trên Báo Công Thương điện tử tại địa chỉ Congthuong.vn và trên các nền tảng mạng xã hội Fanpage, Youtube, Tik Tok Báo Công Thương.
Tham gia chương trình hôm nay có các diễn giả:
Ông Hồ Tùng Bách - Phó trưởng ban Ban Bảo vệ Người tiêu dùng, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia
- Ông Bùi Thanh Thủy - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội bảo vệ Người tiêu dung Việt Nam
- Luật sư Nguyễn Thanh Hà, CEO Công ty Luật Sb Law
- TS. Nguyễn Ngọc Quyên, Trưởng Bộ môn Pháp luật Cạnh tranh và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh: Người dân vẫn mắc bẫy dù những thủ đoạn lừa đảo cũ
Xin kính chào quý vị khán giả đã đến với chương trình Diễn đàn - Đối thoại của Báo Công Thương, cùng gặp gỡ những nhân vật nổi tiếng với những câu chuyện lan tỏa, có ý nghĩa trong cộng đồng xã hội.
![]() |
Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh chia sẻ những lời khuyên giúp phòng tránh chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng. |
Thưa quý vị! Thời gian gần đây, bản thân tôi cũng như nhiều người đã từng mắc phải một chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng với những chiêu trò lừa đảo, khiến nhiều người bị mất tiền bởi nhẹ dạ cả tin, đánh vào thói quen mua sắm của người tiêu dùng, những người hay mua hàng trên các sàn thương mại điện tử.

Việt Tân lại ‘ếch ngồi đáy giếng’ xuyên tạc về nhập khẩu điện
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của tác giả Thu Liễu được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương tại trang web Congthuong.vn, xin được gửi đến quý vị khán thính giả trong mục Podcast – Thời sự ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Mới đây, tổ chức khủng bố Việt Tân đã “ếch ngồi đáy giếng”, đưa ra thông tin xuyên tạc về nhập khẩu điện nhằm mục đích xấu, cố tình gây hiểu lầm trong dư luận.
Việt Tân cố tình xuyên tạc các chính sách của Nhà nước về phát triển năng lượng tái tạo và hợp tác quốc tế trong việc cung cấp điện.
![]() |
Việt Nam là một nền kinh tế thị trường thì việc xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ, trong đó có điện năng là chuyện hết sức bình thường |
Hai luận điệu chính của tổ chức khủng bố này là việc Việt Nam nhập khẩu điện từ Lào và Trung Quốc trong khi điện trong nước dư thừa. Đồng thời tổ chức này còn chỉ trích Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khi nhập khẩu điện từ hai nước láng giềng nhưng lại mua điện mặt trời của người dân với “giá 0 đồng”.
Đầu tiên, về vấn đề nhập khẩu điện, Việt Tân cho rằng Việt Nam mua điện từ Lào và Trung Quốc trong khi có tiềm năng điện mặt trời, điện gió và điện gió ngoài khơi dồi dào. Tuy nhiên, sự thật là Việt Nam nhập khẩu một lượng điện rất nhỏ từ các nước láng giềng, chủ yếu là do sự hợp tác giữa các Chính phủ trong khu vực. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường (Việt Nam là một nền kinh tế thị trường) thì việc xuất nhập khẩu, mua bán, trao đổi hàng hoá dịch vụ, trong đó có điện năng là chuyện hết sức bình thường. Việc nhập khẩu điện rẻ hơn chi phí đầu tư tại chỗ sẽ góp phần giảm áp lực cho nguồn tài chính của quốc gia; góp phần giữ vững giá năng lượng trong nước và đương nhiên người dân sẽ không phải chịu chi phí mua điện quá cao, cùng nhiều lợi ích khác…
Về sản lượng điện nhập khẩu, tính trung bình hàng năm khoảng 2% là một con số quá nhỏ. Vào tháng 5/2023, ông Đặng Hoàng An - Chủ tịch Hội đồng thành viên EVN (Thứ trưởng Bộ Công Thương thời điểm đó) đã có những phân tích rất chi tiết cụ thể về vấn đề này. Theo ông, sản lượng điện nhập khẩu từ Lào chỉ khoảng 7 triệu kWh/ngày, từ Trung Quốc khoảng 4 triệu kWh/ngày, con số này hoàn toàn không đáng kể so với mức tiêu thụ hàng ngày của miền Bắc, khoảng 450 triệu kWh.
Trên thực tế, trong chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, nguồn điện nhập khẩu hiện nay là phần để mở rộng hợp tác quốc tế và cơ bản dựa trên mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia láng giềng, đây cũng là một phần trong cam kết kết nối mạng lưới điện các nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Thậm chí, trong tương lai, xuất nhập khẩu điện của Việt Nam sẽ còn được mở rộng vì tại Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, các nước đã đặt vấn đề kết nối mạng lưới điện liên thông ASEAN.
Hơn nữa, việc mua điện từ các quốc gia láng giềng là một phần trong chiến lược mở rộng hợp tác khu vực và xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng xuyên biên giới. Việt Nam đã thực hiện các thỏa thuận với Lào và Trung Quốc từ nhiều năm nay, và nguồn điện này giúp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đặc biệt trong các mùa cao điểm hoặc khi có sự cố trong hệ thống điện nội địa. Thậm chí, Việt Nam còn xuất khẩu điện sang Campuchia, cho thấy nguồn cung điện không chỉ phụ thuộc vào nhập khẩu mà còn có khả năng cung cấp cho các nước trong khu vực.
Về cáo buộc mua điện mặt trời từ người dân với giá 0 đồng, đây là một sự xuyên tạc trắng trợn. Thực tế, Chính phủ đã quy định rất rõ về cơ chế phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ, và việc mua điện dư từ người dân được thực hiện theo các chính sách hợp pháp. Theo Nghị định số 135/2024/NĐ-CP, được chính phủ ban hành và đã có hiệu lực từ ngày 22/10/2024, việc mua bán điện mặt trời giữa EVN và người dân được quy định chặt chẽ với mức giá hợp lý, không phải "0 đồng" như tổ chức Việt Tân cáo buộc. Các chính sách này không chỉ khuyến khích người dân phát triển năng lượng tái tạo mà còn giúp giảm thiểu lãng phí nguồn năng lượng dư thừa.
Điều quan trọng là Nghị định này khuyến khích người dân lắp đặt hệ thống điện mặt trời mái nhà và cho phép bán lượng điện dư lên lưới quốc gia, với mức giới hạn 20% công suất lắp đặt thực tế. Mức giá mua bán điện được căn cứ theo giá điện thị trường, phù hợp với tình hình phát triển của hệ thống điện quốc gia. EVN là đơn vị mua điện dư này, không phải vì lợi nhuận, mà vì đây là một nhiệm vụ được quy định trong chính sách của Nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân và thúc đẩy sự phát triển bền vững của năng lượng tái tạo.
Chính sách này thực tế cũng không chỉ đơn thuần khuyến khích lắp đặt điện mặt trời mái nhà mà còn bao gồm các ưu đãi về thuế và giảm thiểu thủ tục hành chính, giúp người dân dễ dàng tham gia vào thị trường năng lượng tái tạo.
Đưa ra những quan điểm sai trái, thiếu hiểu biết kiểu “ếch ngồi đáy giếng”, Việt Tân đã cố tình dựng lên những câu chuyện sai sự thật, cố tình gây chia rẽ, với mục đích xấu. Thực tế, Bộ Công Thương và EVN đã có những giải pháp phù hợp, kịp thời, góp phần quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng. Những luận điệu sai trái của Việt Tân không chỉ thiếu cơ sở mà còn đi ngược lại lợi ích của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bộ trưởng Bộ Công Thương: Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài Podcast - Thời sự được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương của PV Quỳnh Nga. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội thông qua.
Sáng 8/11, tiếp tục Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe Tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi).
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Hóa chất (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, Luật Hóa chất được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007. Sau 16 năm thi hành, Chính phủ nhận thấy, so với thời điểm ban hành, hệ thống pháp luật hiện nay đã có nhiều thay đổi; Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn liên quan đến lĩnh vực hóa chất; nhiều Luật mới có liên quan cũng đã được Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương cho hay, xây dựng Luật Hóa chất (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp hóa chất |
Cùng với đó, Việt Nam đã gia nhập nhiều hiệp định thương mại tự do và một số Công ước, Điều ước quốc tế mới về quản lý hóa chất. Mặt khác, thực tiễn thi hành luật cũng cho thấy một số quy định của Luật Hóa chất hiện hành đã bộc lộ những bất cập, vướng mắc, không còn phù hợp với tình hình thực tế.
Vì vậy, việc sửa đổi Luật Hóa chất là cần thiết nhằm kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương mới của Đảng trong lĩnh vực hóa chất và khắc phục một số vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, quốc tế hiện nay và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Về mục đích, quan điểm xây dựng Luật, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho hay, xây dựng Luật Hóa chất (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển công nghiệp hóa chất.
Sửa đổi toàn diện, đồng bộ các quy định của Luật Hóa chất theo hướng vừa bảo đảm kế thừa các quy định “đã chín, đã rõ, được đa số đồng tình và đã được kiểm chứng qua thực tiễn”; bãi bỏ các quy định không còn phù hợp, gây vướng mắc, cản trở; bổ sung, phát triển các quy định mang tính nguyên tắc, nền tảng phù hợp với tình hình mới gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế.
Dự thảo Luật này không có nội dung trái Hiến pháp, không có chính sách trái chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; không lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ và bảo đảm tương thích với các điều ước/cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi) bám sát 4 chính sách lớn được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội thông qua, bao gồm: Phát triển bền vững ngành công nghiệp hóa chất thành ngành công nghiệp nền tảng, hiện đại; Quản lý hóa chất đồng bộ trong toàn bộ vòng đời; Quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm; Nâng cao hiệu quả đảm bảo an toàn hóa chất.
Dự thảo Luật gồm 9 chương, 89 điều (giảm 1 chương và tăng 18 điều so với Luật Hóa chất hiện hành). Việc tăng các điều, khoản trong dự thảo Luật chủ yếu và thực chất là các quy định mới về phát triển công nghiệp hóa chất, quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm và phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành về quản lý hóa chất.
Cụ thể như sau: Chương I. Quy định chung, gồm 8 Điều. Nội dung chủ yếu về: Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng; Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hóa chất.
Chương II. Phát triển công nghiệp hóa chất, gồm 6 Điều. Nội dung chủ yếu về: Chiến lược phát triển công nghiệp hóa chất; Các yêu cầu đặc thù đối với dự án hóa chất; Cơ chế ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với lĩnh vực công nghiệp hóa chất trọng điểm.
Chương III. Quản lý hoạt động hóa chất, gồm 30 Điều, được chia thành 4 Mục. Nội dung chủ yếu về: Quy định chung đối với hoạt động hóa chất; Quy định về Hóa chất có điều kiện; Quy định về Hóa chất cần kiểm soát đặc biệt; Quy định về Hóa chất cấm. Các quy định tại Chương này nhằm quản lý các hoạt động trong toàn bộ vòng đời, từ sản xuất, nhập khẩu đến sử dụng, thải bỏ hóa chất.
Chương IV. Thông tin hóa chất, gồm 11 Điều. Nội dung Chương này cơ bản kế thừa quy định tại Luật Hóa chất hiện hành về: Đăng ký, đánh giá, quản lý hóa chất mới; Thông tin về hóa chất, bảo mật thông tin và Cơ sở dữ liệu hóa chất. Việc áp dụng các quy định nêu trên đã ổn định, phù hợp với thực tiễn và các quy định có liên quan của pháp luật. Dự thảo Luật chỉ quy định cụ thể hơn về trách nhiệm cung cấp, lưu giữ, cập nhật thông tin về phân loại đặc tính nguy hiểm của hóa chất và phiếu an toàn hóa chất.
Chương V. Hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm, gồm 3 Điều. Đây là Chương được bổ sung mới nhằm quy định rõ trách nhiệm của các Bộ quản lý ngành về công bố hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm chưa có quy chuẩn kỹ thuật; Tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm chứa hóa chất nguy hiểm phải xây dựng quy trình quản lý hóa chất; Trách nhiệm công bố thông tin trên Cơ sở dữ liệu hóa chất của các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu sản phẩm chứa hóa chất nguy hiểm. Các quy định trên được xây dựng theo hướng minh bạch thông tin đến công chúng, không phát sinh thủ tục hành chính.
Chương VI. An toàn hóa chất, gồm 13 Điều, chia thành 2 Mục. Nội dung chủ yếu về: Yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động hóa chất và Phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất.
Chương VII. Bảo vệ môi trường và an toàn cho cộng đồng, gồm 5 Điều. Nội dung Chương này cơ bản kế thừa quy định tại Luật Hóa chất hiện hành vì đã thực hiện ổn định, phù hợp với thực tiễn và các quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Chương VIII và Chương IX. Các quy định về tổ chức thực hiện, gồm 13 Điều. Nội dung chủ yếu về: Trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực hóa chất và Điều khoản thi hành.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Hóa chất (sửa đổi). Hồ sơ dự án Luật đã đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 8 này. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát dự thảo Luật với các luật khác, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong quá trình hoàn thiện dự thảo Luật.
Sau kỳ họp này, trên cơ sở ý kiến thảo luận của các Đại biểu Quốc hội và kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ sẽ chỉ đạo Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện Dự thảo Luật Hóa chất (sửa đổi), bảo đảm thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng trong lĩnh vực hóa chất; đồng thời rà soát, xử lý các mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập (nếu có) với các luật khác để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật, phù hợp với bối cảnh trong nước, quốc tế hiện nay và tương thích với các điều ước quốc tế và các công ước về hóa chất mà Việt Nam tham gia nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa chất phát triển hiệu quả, bền vững.

Thiết giáp Ukraine bị quét sạch, 60 binh sĩ thiệt mạng
Trên mặt trận Kursk, quân Ukraine đã phá thế bao vây của Nga nhưng đổi lại là gặp thiệt hại nặng nề.
Tại khu vực Kursk, Nga và Ukraine tiếp tục diễn ra cuộc chiến pháo binh quy mô lớn, đồng thời tiếp tục tranh giành vòng vây. Theo kênh Telegram “Military Chronicles” đưa tin vào ngày 5/11, quân tiếp viện Ukraine trong cuộc phản công từ ngày 4 đến 5/11 đã phá vỡ sự bao vây ba mặt của quân Nga đối với làng Pogrebki.
Quân tiếp viện Ukraine xuất phát từ làng Malaya Loknya, tiến dọc theo đường cao tốc về phía Bắc, mở cuộc phản công mạnh mẽ vào các vị trí của quân Nga ở phía nam Pogrebki và bờ tây sông Malaya Loknya.
Do sông ngăn cách nên lực lượng dự bị của Nga không thể hỗ trợ kịp thời các vị trí ở bờ Tây, buộc quân Nga tại bờ Tây phải từ bỏ trận địa và rút về bờ Đông. Nhờ vậy, quân Ukraine đã mở thông tuyến đường nông thôn từ Malaya Loknya đến Pogrebki.
![]() |
Do sông ngăn cách nên lực lượng dự bị của Nga không thể hỗ trợ kịp thời các vị trí ở bờ Tây, buộc quân Nga tại bờ Tây phải từ bỏ trận địa và rút về bờ Đông. Ảnh: Getty Images |
Nhìn vào bản đồ, do khoảng cách quá gần, quân Nga ở bờ Đông vẫn có thể sử dụng hỏa lực tầm gần để tấn công trực tiếp vào con đường ở bờ Tây, phong tỏa con đường bằng hỏa lực, khiến quân Ukraine dù đã mở thông đường nhưng không thể sử dụng nó bình thường.
Để đảm bảo an toàn cho con đường, lực lượng tiếp viện của Ukraine đã điều động một trung đội, dưới sự yểm trợ của 3 xe chiến đấu bộ binh, tấn công vào vị trí của quân Nga ở bờ Đông sông.
Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của hỏa lực chống tăng, quân Nga đã phá hủy một trong ba xe chiến đấu bộ binh của Ukraine, buộc hai chiếc còn lại phải rút lui. Bộ binh Ukraine mất đi sự yểm trợ, đã phải rút lui khẩn cấp sau khi 15 binh sĩ bị tiêu diệt và 3 người bị bắt.
Do quân Ukraine đã đạt được đột phá ở tuyến phía Đông của vòng vây, quân Nga bắt đầu tăng cường tấn công tuyến phía Tây của vòng vây, đặc biệt là vào các Novoivanovka và Leonidovo. Quân Nga đã trực tiếp sử dụng máy bay Su-34 để ném bom các ngôi làng này.
Theo kênh Telegram North Wind, quân Ukraine phàn nàn rằng Nga dùng bom không quân tấn công mạnh vào các vị trí của Ukraine trước khi phát động tấn công trên bộ, khiến Ukraine chịu tổn thất lớn và phải liên tục điều động lực lượng dự bị đến khu vực này để củng cố phòng tuyến. Do lực lượng dự bị của Ukraine dồi dào, họ có đủ sức mạnh để giữ vững tuyến phòng thủ.
Theo đoạn video được phóng viên công bố ngày 5/11, Quân đội Nga đã sử dụng hệ thống pháo phản lực phóng loạt Tornado-S để tiêu diệt cụm thiết giáp của Lữ đoàn tấn công đường không số 82 Ukraine, bao gồm hai xe tăng, ba xe chiến đấu bộ binh Bradley, 10 xe bọc thép, pháo tự hành 2S1 “Gvozdika”, một hệ thống phòng không Osa và khoảng 10 xe bán tải đã bị phá hủy.
Video cho thấy máy bay không người lái trinh sát của quân Nga đã thành công tiến sâu 30 km vào khu vực tỉnh Sumy của Ukraine và phát hiện cụm thiết giáp của Ukraine ở vành đai rừng gần làng Kiyanitsa.
Máy bay không người lái của Nga trước tiên đã kiểm tra kỹ lưỡng các trang bị của quân Ukraine, sau đó truyền thông tin thu được về cho lực lượng phóng tên lửa phía sau. Sau khi xác nhận thông tin, quân Nga ở hậu phương đã lập tức sử dụng hệ thống pháo phản lực Tornado-S để bắn một loạt đạn, bao phủ khu vực rừng nơi cụm thiết giáp của Ukraine tập trung.

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long làm việc với tỉnh Thanh Hóa về tình hình công nghiệp, thương mại, năng lượng
Trong chương trình làm việc tại tỉnh Thanh Hóa, chiều 6/11, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long cùng Đoàn công tác của Bộ Công Thương đã làm việc với UBND tỉnh Thanh Hóa về tình hình công nghiệp, thương mại, năng lượng trên địa bàn trong 10 tháng đầu năm 2024; lắng nghe một số kiến nghị của ngành Công Thương địa phương về một số lĩnh vực của ngành.
Tại buổi làm việc, lãnh đạo Sở Công Thương tỉnh Thanh Hóa đã báo cáo với Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long về một số kết quả đạt được về công nghiệp, thương mại trong 10 tháng đầu năm 2024.
![]() |
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long phát biểu tại buổi làm việc |
Theo đó, trong 10 tháng đầu năm 2024, mặc dù tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn, song được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương cùng với sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh vẫn giữ được ổn định và tiếp tục phát triển, quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Lãnh đạo Sở Công Thương tỉnh Thanh Hóa cũng đã kiến nghị với Bộ Công Thương quan tâm hỗ trợ tỉnh Thanh Hoá trong việc giới thiệu các nhà đầu tư tiềm năng trong và ngoài nước để tìm hiểu đầu tư lĩnh vực công nghiệp, thương mại trên địa bàn tỉnh. Đề nghị Bộ Công Thương quan tâm trình Thủ tướng Chính phủ ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư công, chỉ đạo đơn vị liên quan tổng hợp các mô hình hiệu quả trong phát triển công nghiệp, thương mại.
Ngoài ra, tỉnh Thanh Hóa cũng kiến nghị Bộ Công Thương tham mưu cho Chính phủ đề xuất Quốc hội sớm thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực nhằm giải quyết một số vướng mắc trong quá trình thực tiễn thi hành hiện nay.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long đánh giá cao những kết quả mà tỉnh Thanh Hóa đạt được trong thời gian qua. Đối với các kiến nghị, đề xuất của tỉnh Thanh Hóa, Thứ trưởng cho biết, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đồng hành cùng tỉnh tháo gỡ khó các khó khăn, vướng mắc để tỉnh phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Trong sáng 6/11, đoàn công tác của Bộ Công Thương do Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long làm Trưởng đoàn cũng đã có buổi làm việc tại Khu kinh tế Nghi Sơn để nắm bắt, tháo gỡ các khó khăn về hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trên địa bàn Khu kinh tế.
Kết thúc buổi làm việc, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long đã giao nhiệm vụ cho Cục, Vụ, các đơn vị có liên quan thuộc Bộ Công Thương nghiên cứu, tham mưu để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Kịp thời nắm bắt, tháo gỡ các khó khăn về hoạt động sản xuất công nghiệp, thương mại trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

Khi Thủ tướng trăn trở sửa đổi Luật Điện lực giữa cường quốc khí LNG
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của Nhà báo Nguyên Minh đưa tin trực tiếp từ thủ đô Doha, Quatar. Bài viết được đăng tải trên báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chưa bao giờ, câu chuyện sửa đổi Luật Điện lực nóng như hiện nay. Thủ tướng Phạm Minh Chính trong chuyến thăm, làm việc tại Qatar đã nhiều lần nhắc tới điều này.
Từ chỉ đạo, định hướng lớn của Tổng Bí thư
![]() |
Quy hoạch Điện VIII đã đề ra con số, cơ cấu cho từng loại nguồn điện |
Tại cuộc làm việc với Quốc vụ khanh phụ trách về năng lượng Qatar Saad bin Sherida Al Kaabi chiều 31/10, sửa đổi Luật Điện lực là cụm từ được hai bên nhắc đến nhiều nhất.
Quốc vụ khanh cho biết, ông vừa là Quốc vụ khanh phụ trách các vấn đề năng lượng Qatar vừa kiêm Giám đốc Điều hành Công ty QatarEnergy, đơn vị đang đàm phán hợp tác với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Ông cho biết, khó khăn nhất nằm ở pháp luật Việt Nam và mong chờ Luật Điện lực sửa đổi sớm được Quốc hội Việt Nam thông qua để làm nền tảng cho hai bên đi vào các thỏa thuận hợp tác cụ thể.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, vừa qua, cũng có vấn đề pháp lý liên quan đến Luật Điện lực sửa đổi cản trở sự phát triển của các nguồn năng lượng. “Chúng tôi đang đẩy nhanh quá trình sửa đổi Luật Điện lực, các quy định liên quan theo hướng giảm can thiệp hành chính, tăng sự chủ động và quyền tự quyết của doanh nghiệp để tạo thuận lợi hơn nữa cho hoạt động hợp tác của các nhà đầu tư nước ngoài với các đối tác trong nước.
Trong kỳ họp Quốc hội đang diễn ra tại Việt Nam, chúng tôi cũng đã, đang thảo luận về vấn đề này để kịp thời sửa đổi những điểm yếu đó. Các doanh nghiệp có thể làm việc trực tiếp với các ngài. Chính phủ Việt Nam không can thiệp vào quyền mua bán, quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Việc sửa đổi Luật Điện lực sẽ giảm sự can thiệp của Chính phủ, của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, tạo môi trường thông thoáng hơn cho doanh nghiệp” - Thủ tướng nhấn mạnh.
Sự lo lắng, quan tâm trên của Thủ tướng cũng là lo lắng, quan tâm hàng đầu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước hiện nay, kể cả về ngắn hạn hay dài hạn thì mệnh lệnh cuộc sống đang đòi hỏi phải đủ điện cho sản xuất, đủ điện cho tiêu dùng, đủ điện cho phát triển.
Cách đây ít ngày, phát biểu ở tổ trong một phiên thảo luận, Tổng Bí thư Tô Lâm đã dành thời lượng lớn cho nhiều chỉ đạo mạnh mẽ về sự cần thiết phải sớm sửa đổi Luật Điện lực. Tổng Bí thư cho rằng nếu không đủ điện cho sản xuất, nhiều nhà đầu tư lớn có thể tính toán không vào hoặc rút khỏi Việt Nam. Nhấn mạnh thời gian không chờ đợi, Tổng Bí thư chỉ đạo phải quyết liệt sửa đổi Luật Điện lực đáp ứng đòi hỏi thực tiễn.
Những chỉ đạo của Tổng Bí thư đã thể hiện quyết tâm chính trị cao, nhìn thẳng vào các điểm nghẽn kinh tế - xã hội để tháo gỡ của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta.
Đến công thức điện cho phát triển
Phát biểu trên diễn đàn Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã nhiều lần nhắc đến con số được các nhà khoa học tính toán. Để GDP Việt Nam tăng trưởng 1%, điện phải đi trước tăng trưởng 1,8-2%.
Thực hiện Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị, Quy hoạch Điện VIII đã đề ra con số, cơ cấu cho từng loại nguồn điện. Để đủ điện cho phát triển, từ nay đến năm 2030, nghĩa là chỉ còn gần 6 năm nữa, Việt Nam phải tăng tổng công suất nguồn điện lên 150.000 - 160.000 MW, gấp đôi tổng công suất hiện nay. Trong khi đó, điện than, thủy điện đã đạt tới hạn phát triển. Điện năng lượng tái tạo muốn phát triển phải có một nguồn điện nền nhất định. Và một trong các giải pháp khả thi nhất chính là phát triển điện khí hoá lỏng. Quy hoạch điện VIII đã xác định nguồn nhiệt điện khí tái hóa từ LNG (hay gọi tắt là “khí LNG”) chiếm tỷ trọng khoảng hơn 14,9% tổng công suất toàn hệ thống phát điện quốc gia vào năm 2030. Việc xây mới 13 nhà máy điện khí LNG với tổng công suất 22.400MW đến năm 2030 và 2 nhà máy nữa với công suất 3.000MW đến năm 2035 là một phần quan trọng trong kế hoạch phát triển nguồn điện của quốc gia. Quy hoạch điện VIII cũng đề ra nhiệm vụ chạy đua với thời gian, tới 2030 phải hoàn thành xây dựng 13 nhà máy điện khí LNG từ Bắc chí Nam.
Và để xây dựng 13 nhà máy ấy, khí LNG ở đâu? Chắc chắn phải nhập từ nước ngoài mà Qatar là một trong những lựa chọn hàng đầu.
Với trữ lượng dầu thô đứng thứ 13 trên thế giới, trữ lượng khí heli đứng số 1 thế giới, Qatar hiện là nhà sản xuất-xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng và nhà sản xuất khí heli lớn hàng đầu thế giới.
Dù đã trở thành ông hoàng ngành năng lượng nhưng Qatar đã có tầm nhìn xa cho tương lai khi từ năm 1996, Tiểu vương Qatar khi đó là Hamad bin Khalifa al Thani cho đầu tư lớn vào công nghệ hiếm hóa lỏng để có thể mang khí tự nhiên ở dạng lỏng có thể vận chuyển bằng tàu lớn.
Qatar khi đó dù còn là nước nghèo nhưng đã mạo hiểm đầu tư rất nhiều tiền vào phát triển các công nghệ này để tăng giá trị công nghiệp khí đốt của họ. Đến nay, Qatar có chi phí khai thác và hóa lỏng khí đốt rẻ nhất trên thế giới. Qatar tiếp tục nhìn xa, mang tiền thu được từ khí đốt đầu tư khắp thế giới với Quỹ đầu tư Qatar có tổng giá trị tài sản lên đến 440 tỉ USD, “trải tiền” đầu tư trên toàn cầu…
Việc cần làm ngay
Những năm đầu đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng nêu ra thông điệp “Những việc cần làm ngay” để cả hệ thống chính trị nhìn thẳng vào sự thật, tháo gỡ các hạn chế, bất cập của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Hiện nay, tinh thần ấy cần tiếp tục được khơi dậy trong lĩnh vực năng lượng.
Một trong những “việc cần làm ngay” của hai nước hiện nay chính là tháo gỡ khó khăn cho phát triển năng lượng, trong đó có hợp tác quốc tế về lĩnh vực này. Trong cuộc làm việc của Thủ tướng Phạm Minh Chính với ngài Quốc vụ khanh phụ trách năng lượng Qatar, cả ngài Quốc vụ khanh và Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Lê Ngọc Sơn đều nhắc đến khó khăn do cơ chế, các quy định của pháp luật. Không thể nhập khẩu “nhanh, nhiều, tốt, rẻ” khí hoá lỏng LNG nếu không gỡ vướng về thể chế. Trong khi như Tổng Bí thư từng nói “thời gian không chờ đợi”, một dự án muốn triển khai phải mất nhiều năm. Ngài Quốc vụ khanh cũng thẳng thắn nói ông vốn là kỹ sư, là chủ doanh nghiệp nên ông chỉ nói chuyện bằng những con số. Khi Việt Nam sửa đổi Luật Điện lực xong thì việc ký kết, hợp tác, giá cả, số lượng… mới có thể bàn thảo! Ông cũng chỉ còn chờ phía Việt Nam sửa Luật mà thôi.
Bên lề chuyến công tác, chúng tôi gặp ông Phạm Văn Phong, Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam PV GAS, đơn vị mà cái tên của nó chiếm toàn bộ ngoại diên của ngành công nghiệp khí Việt Nam. Ông Phong trước đó từng nhiều lần chia sẻ mong muốn tháo gỡ, sửa đổi các qui định của pháp luật thì mới có thể phát triển được các nhà máy điện khí. Năm 2023, Việt Nam mới nhập khẩu chuyến tàu khí LNG đầu tiên để khởi động cho ước mơ lớn điện khí trong khi trên thế giới, các nước công nghiệp phát triển đã đi trước cả 40 năm như Nhật Bản đón chuyến tàu LNG đầu tiên vào năm 1969. Từ đó, Nhật Bản đã phát triển ngành công nghiệp LNG mạnh mẽ.
Rõ ràng thời gian không chờ đợi nếu Luật Điện lực không được sửa đổi sớm nhất, tốt nhất có thể.
Chuyến công du của Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Diễn đàn sáng kiến Đầu tư tương lai có thể coi là chuyến đi tìm nguồn năng lượng mới cho tương lai. Chuyến đi này, thật trùng hợp khi các nhà lãnh đạo những vương quốc dầu lửa đều nhấn mạnh cụm từ “thời gian và trí tuệ”. Đó là hai thành tố cấu thành phát triển. Không có trí tuệ, tư duy đột phá thì thời gian phát triển sẽ kéo dài bởi sự trì trệ. Nhưng có trí tuệ, có đường hướng phát triển rồi mà không tìm con đường nhanh nhất, rút ngắn thời gian nhất để hiện thực hoá nó thì tất cả cũng vẫn bị trì trệ.
Tháo gỡ nút thắt, mở đường cho phát triển điện trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Để hiện thực hoá kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam như Tổng Bí thư Tô Lâm đề ra, đi tìm nguồn năng lượng mới để đủ điện cho phát triển đang là một trong “những việc cần làm ngay”, là mệnh lệnh cuộc sống.
Trong chuyên đề trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu 7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trong đó nhấn mạnh phải giải quyết vấn đề hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong nhân dân. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Tổng Bí thư yêu cầu phải chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển.
“Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật” - Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh.
Thiết nghĩ những chỉ đạo ấy rất rõ ràng và đầy tính thời sự trong giải quyết câu chuyện sửa đổi Luật Điện lực hiện nay.
Mệnh lệnh cuộc sống đòi hỏi chúng ta phải tháo gỡ điểm nghẽn pháp luật, sửa Luật để phát triển, để tìm con đường phát triển đột phá ngay dưới chân mình!
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang thông tin điện tử của Tập đoàn dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
“Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” được coi là Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard. Nội dung cuốn sách thuật lại chi tiết toàn cảnh lịch sử của ngành dầu mỏ, mô tả các cuộc đấu tranh giành tiền bạc và quyền lực xung quanh ngành công nghiệp dầu mỏ, làm rung chuyển kinh tế thế giới, làm thay đổi vận mệnh của nhiều quốc gia, dân tộc, gây ra nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu. Xin lần lượt đăng tải nội dung tác phẩm nổi tiếng này để phục vụ bạn đọc.
![]() |
“Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” được coi là Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard |
Trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng phụ thuộc vào năng lượng như hiện nay thì dầu mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế toàn cầu và hầu như mọi ngành công nghiệp đều chịu tác động rất lớn bởi những biến động của nguồn tài nguyên quý giá này. Chỉ trong vài tháng qua, giá dầu đã tăng đột ngột, ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Tháng 7 năm 2008, giá dầu lần đầu tiên đạt kỷ lục trong lịch sử với mức giá 150 đô-la/thùng.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cũng vừa công bố báo cáo mới nhất về thị trường dầu mỏ thế giới. Nhu cầu tăng mạnh ở các nước đang phát triển và những căng thẳng về nguồn cung hiện nay dự báo "một bức tranh thị trường dầu mỏ u ám trong trung hạn". Dầu mỏ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh chính trị thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng có nhiều biến động khiến giá dầu không ngừng leo thang.
Thực tế đang chứng minh rằng thế giới sẽ dần dần được vận hành bởi động lực là dầu mỏ cho đến khi nhân loại tìm ra được một loại nhiên liệu khác đủ sức thay thế hoàn toàn, mà con đường đó dường như còn xa... Nằm trong sự ảnh hưởng chung đó, Việt Nam cũng không tránh khỏi những biến động và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trong ngành dầu mỏ. Giá xăng và nhiên liệu tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia và đời sống của người dân.
Nhận thấy tầm quan trọng của dầu mỏ trong đời sống kinh tế, chính trị quốc tế, PetroVietnam đã hợp tác với Alpha Books, Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC) và NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách mang tên Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực – Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX. Như cuốn sách cho thấy, đằng sau rất nhiều cuộc chiến tranh, xung đột, va chạm, liên kết, liên minh, có một nguyên nhân luôn thường trực, đó là dầu mỏ. Dầu mỏ không còn giới hạn là một thứ nhiên liệu lỏng đơn thuần mà đã trở thành một thứ vũ khí mang màu sắc chính trị, kinh tế, dĩ nhiên là cả tôn giáo, văn hóa…
Đây là một cuốn sách trên 1.200 trang khắc họa sâu sắc toàn cảnh lịch sử phát triển và vai trò của ngành dầu và các sản phẩm lọc hoá dầu. Tác giả của cuốn sách, Daniel Yergin là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng là đồng tác giả cuốn Energy Future (Năng lượng tương lai). Một cuốn sách được giải của ông là Shattered Peace (Nền hòa bình bị phá bỏ) đã trở thành tác phẩm lịch sử kinh điển về những nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh. Cuốn The Commanding Heights (Những đỉnh cao chỉ huy) của ông đã được xuất bản tại Việt Nam và được độc giả đánh giá cao.
Chúng tôi tin rằng, tác phẩm đầy giá trị này của Daniel Yergin – Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực sẽ giúp độc giả Việt Nam, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng hiểu biết sâu sắc hơn về các cuộc giao tranh quyền lực nóng bỏng, sự giàu có của các cường quốc, nguyên nhân cội rễ của các cuộc xung đột Trung Đông, vai trò của các quốc gia Vùng Vịnh trong nền kinh tế toàn cầu và những biến động chính trị trong khu vực ảnh hưởng đến toàn thế giới...
Bạn đang cầm trong tay một cuốn sách rất đặc biệt; có thể coi đây là cuốn biên niên sử hết sức lý thú của hành tinh chúng ta trong hơn một thế kỷ nay, xoay quanh một tài nguyên có tầm quan trọng sống còn đối với hầu hết các quốc gia muốn đặt chân lên con đường công nghiệp hóa và đi tới phồn vinh, đó là DẦU MỎ. Tác giả cuốn sách, DANIEL YERGIN, người đã được trao giải thưởng Pulitzer, là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng từng là giảng viên trường Đại học Harvard và trường John F. Kennedy Harvard.
Một tác phẩm lớn khác của ông đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam là cuốn Những đỉnh cao chỉ huy, được độc giả đánh giá rất cao Ngay từ đầu bạn đọc chắc chắn sẽ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn của cuốn sách. Dù bạn là người đã từng hoặc đang làm việc trong lĩnh vực dầu khí đi nữa thì khi bắt đầu đọc cuốn sách này, bạn vẫn có thể cảm thấy hiểu biết của mình về tầm vóc và ảnh hưởng của các hoạt động dầu khí đối với xã hội loài người còn quá khiêm tốn; rằng hóa ra gần cả thế kỷ nay dầu mỏ và sau này là khí thiên nhiên (còn gọi là khí đốt) đã đóng một vai quan trọng đến mức khó hình dung nổi đối với sự phát triển của lịch sử thế giới; rằng số phận của không ít những quốc gia, dân tộc, tập đoàn kinh tế, nguyên thủ quốc gia và chính khách… lẽ ra đã khác đi nếu dầu mỏ không được dùng làm vũ khí trong các cuộc đối đầu giữa các quốc gia và các thế lực chính trị, xã hội đã từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.
Nhưng lịch sử đã sang trang và thế giới đang như bạn thấy chứ không phải như thế khác. Nhưng điều hết sức lý thú là tác giả cuốn sách sẽ đưa bạn trở về với những sự kiện lịch sử có thể bạn đã biết, tuy nhiên lại cung cấp cho bạn những thông tin, phân tích, đánh giá khá độc đáo và đầy sức thuyết phục để minh chứng cho vai trò quyết định của dầu mỏ đến chiều hướng phát triển của những sự kiện đó.
Trong phần mở đầu cuốn sách, tác giả viết: "Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất trong số các ngành công nghiệp vĩ đại từng xuất hiện trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX… Ngành kinh doanh này, trong thế kỷ XX, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu mạo hiểm, các nhà thúc đẩy kinh doanh hoạt ngôn, các ông chủ doanh nghiệp độc đoán, tới các bộ máy doanh nghiệp quan liêu lớn và các công ty nhà nước. Sự bành trướng của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi về công nghệ, và các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX.
Lịch sử dầu mỏ đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hợp đồng và nhiều quyết định quan trọng – do các cá nhân, công ty và các quốc gia thực hiện. Đôi khi, chúng ra đời dựa trên những suy tính kỹ càng, và đôi khi, chúng lại chỉ đơn giản là kết quả của một sự tình cờ. Không ngành kinh doanh nào có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác ý nghĩa của rủi ro và phần thưởng cũng như tầm quan trọng của cơ hội và số phận như ngành dầu mỏ". Có thể coi đó là sự mô tả khá chính xác vóc dáng và bản chất của ngành công nghiệp dầu khí. Từ địa vị chưa mấy được chú ý vào đầu thế kỷ XX, dầu mỏ, với tư cách một nhân tố tạo nên sức mạnh quốc gia, đã khẳng định tầm quan trọng của nó ngay trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi những chiếc máy bay chạy bằng động cơ đốt trong soán ngôi của các phương tiện di chuyển dùng ngựa và than.
Đến giữa thế kỷ XX, rất ít người còn hoài nghi về vai trò quan trọng không thể thiếu của dầu mỏ trong cán cân năng lượng toàn cầu. Nửa cuối của thế kỷ XX, thế giới chứng kiến sự bứt phá và chiếm lĩnh vị trí thống soái của dầu mỏ và khí thiên nhiên với nền công nghiệp và dịch vụ xã hội, bỏ xa nhiên liệu hóa thạch truyền thống là than đá. Những năm đầu của thế kỷ XXI này đang đánh dấu sự vươn lên ngoạn mục của dầu mỏ và khí đốt khi các quốc gia giàu hai nguồn tài nguyên này dường như đang có khả năng khuynh đảo ít nhất là một phần của thế giới văn minh bằng cách đóng hay mở các giếng dầu hoặc các đường ống dẫn khí. Mấy năm nay, Iran vẫn bướng bỉnh với các nghị quyết của Liên hợp quốc và các cường quốc Âu - Mỹ về vấn đề hạt nhân chắc cũng dựa vào thế có trữ lượng dầu gần 20 tỷ tấn, chỉ đứng sau Arập Xêút.
Venezuela, một trong những nước có trữ lượng dầu khổng lồ, cũng tỏ ra hết sức ngang ngạnh trong quan hệ với Mỹ. Quan hệ Nga - Ukraine, Nga - Belarus lúc ấm (thậm chí đã quyết định thành lập Liên bang với nhau), lúc lạnh cũng vì khí đốt. Rồi Trung Quốc, quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cùng với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới (trong khi nguồn tài nguyên trong nước có hạn), đã có những hoạt động hết sức mạnh mẽ để đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế với hầu hết các nước châu Phi có lẽ cũng nhằm vào nguồn tài nguyên dầu khí từ lục địa này.
Có thể nói, sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt và than đá. Ngay cả nguồn lương thực của chúng ta, dù là sản phẩm của ngành nông nghiệp, cũng phụ thuộc không ít vào các nguồn tài nguyên này với tư cách là nguyên liệu (ví dụ để sản xuất phân đạm từ dầu, khí và than đá) hoặc nhiên liệu cho máy móc.
Theo thống kê của các tổ chức nghiên cứu năng lượng thế giới, trữ lượng dầu được xác minh của toàn thế giới (số liệu năm 2005) nằm trong khoảng từ 2.050 cho đến 2.390 tỷ thùng, tương đương từ 270 đến 323 tỷ tấn, và đến bây giờ chúng ta đã sử dụng khoảng 45 cho đến 70% trữ lượng đó. Các nước ở vùng Trung Đông chiếm khoảng một nửa trữ lượng dầu xác minh của thế giới, trong đó riêng Saudi Arabia chiếm một phần tư.
Nếu tính cả vùng Bắc Phi và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ ở Trung Á thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Trong khi đó, trữ lượng dầu ở các nước G7 khá khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá ít (trừ Canađa có trữ lượng dầu trong cát lớn, nhưng có lẽ còn lâu mới có thể khai thác hiệu quả được do giá thành khai thác cao). Cho nên, điều dễ hiểu là vùng Trung Đông, Trung Á, Bắc Phi và cả Mỹ Latinh, hiện có nhiều điểm nhạy cảm nhất, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị của thế giới.
Không ai có thể dự đoán được nguy cơ mất ổn định ở những vùng này bao giờ mới có hồi kết chừng nào dầu mỏ vẫn còn là đối tượng, cũng là công cụ hết sức nhạy cảm và hữu hiệu trong các tranh chấp quốc tế dù dưới bất kỳ màu áo gì: sắc tộc, tôn giáo hay hệ tư tưởng, chế độ chính trị. Nhưng liệu thế giới còn sử dụng dầu được bao nhiêu năm nữa? Liệu có phải thời gian để sử dụng lượng dầu dự trữ đã được xác minh có thể còn ngắn hơn 40 năm? Vậy các kịch bản có thể xảy ra với bức tranh dầu khí cũng như thế giới trong thế kỷ này sẽ như thế nào? Liệu nhân loại còn có khả năng tìm thấy dầu (và khí) nữa không? Giải pháp nào sẽ được tiến hành để bảo đảm nguồn năng lượng cho tương lai nếu dầu cạn kiệt? Đó là những câu hỏi luôn luôn làm đau đầu nhà lãnh đạo các quốc gia và gánh nặng đó lại được đặt lên vai các nhà khoa học, các nhà quản lý. Câu hỏi đầu tiên cần trả lời là dưới lòng đất còn bao nhiêu dầu nữa?
Theo đánh giá của các nhà khoa học thì trong tương lai còn có thể tìm thêm được khoảng từ 275 đến 1.469 tỷ thùng dầu nữa. Nếu lấy con số lạc quan nhất thì lượng dầu sẽ được phát hiện và xác minh sẽ bằng với trữ lượng xác minh mà chúng ta đang có trong tay. Nghĩa là kỷ nguyên dầu mỏ còn có thể kéo dài thêm 40 – 50 năm hoặc dài hơn, ngắn hơn, tùy mức sử dụng hàng năm tăng hay giảm. Tuy nhiên, triển vọng này lạc quan đến mức độ nào là điều không dễ dự báo.
Song các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách trên thế giới vẫn tỏ ra tin tưởng, bởi hiện tại đang có một số khả năng chứng tỏ việc tăng trữ lượng dầu toàn cầu là điều có thể xảy ra. Thứ nhất, đó là việc tăng hệ số thu hồi dầu ở các mỏ đang và sẽ đưa vào khai thác. Điều này đạt được là nhờ các công ty khai thác dầu đưa vào sử dụng những công nghệ và kỹ thuật hiện đại, tiết kiệm chi phí cho việc thăm dò và khai thác dầu, làm giảm giá thành. Thứ hai, trữ lượng dầu được công bố của các quốc gia chưa phải là trữ lượng thật sự người ta có. Thứ ba, trữ lượng được xem xét hiện nay chưa bao gồm các dạng hóa thạch có chứa dầu như cát dầu (tar sands) và bitum (bitumen).
Một tiềm năng chưa được tính đến nữa là trữ lượng có thể có ở Nam Cực đang bị cấm thăm dò, khai thác vì mục đích bảo vệ môi trường. Nói chung, các nguồn dầu này, nếu khai thác được, sẽ cho sản lượng không nhỏ trong cán cân năng lượng hóa thạch. Thứ tư, các vùng nước sâu, vùng gần Bắc Cực đang là thử thách cũng là cơ hội lớn đối với các công ty dầu khí thế giới.
Trong những năm gần đây, nhiều mỏ dầu nước sâu ở vịnh Mexico, ở Angola và ở Đông Thái Bình Dương đã được phát hiện và đưa vào khai thác. Ở Việt Nam, bên cạnh việc tiếp tục tìm kiếm dầu khí ở những vùng gần bờ, các công việc chuẩn bị cho việc ra xa bờ, nhất là vùng thềm lục địa phía nam, đang được xúc tiến tích cực.
Theo đánh giá của các cơ quan năng lượng quốc tế, Việt Nam đang ở trong giai đoạn tăng trưởng sản lượng dầu, trong khi Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan... đã đi qua giai đoạn đỉnh cao của sản lượng. Triển vọng lạc quan của ngành dầu khí sẽ còn được nâng cao hơn nữa nhờ một hướng đi đang được mở ra để gia tăng nguồn nhiên liệu cho giao thông vận tải, công nghiệp và sinh hoạt. Đó là nguồn nhiên liệu sinh học, mà chủ yếu là cồn sinh học (gasohol) và diesel sinh học (biodiesel). Cồn sinh học, mà thực chất là etanol được sản xuất từ ngũ cốc, sắn, mía, củ cải, kể cả xác các loại thực vật..., đang được nhiều nước như Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines... sản xuất với quy mô không nhỏ để thay thế hoặc pha lẫn với xăng. Trong khi đó, biodiesel sản xuất từ các loại dầu thực vật, chủ yếu là dầu hạt cải (rape oil) và dầu hướng dương (sunflower oil) thì lại được nhiều nước châu Âu chú trọng.
Năm 2005, EU đã sản xuất và tiêu thụ khoảng 10 triệu tấn biodiesel. Và để đón đầu và tiếp cận sự "ra đi" của kỷ nguyên dầu khí có khả năng xảy ra vào nửa cuối thế kỷ này, các nhà khoa học trên thế giới còn có những kịch bản hấp dẫn và lãng mạn hơn nữa. Đó là năng lượng nhiệt hạch (năng lượng phát ra khi tổng hợp hạt nhân chứ không phải năng lượng phân rã hạt nhân như trong các nhà máy điện nguyên tử hiện nay), năng lượng mặt trời, các dạng năng lượng tái tạo khác và nhất là năng lượng hydro lấy từ nước thông qua phản ứng quang - xúc tác.
Có thể nói, dầu mỏ đã trở thành động lực phát triển của thế giới trên con đường tiến tới văn minh, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra biết bao biến động xã hội để tàn phá nền văn minh đó. Nhưng đó là định mệnh chăng? Năng lượng nguyên tử, thậm chí lúc mới được phát hiện, chưa mang lại lợi ích gì cho nhân loại thì đã gây tai họa, nhưng rồi nó cũng phải thuần phục để phục vụ lợi ích con người. Và chúng ta hy vọng khi phải chia tay với kỷ nguyên dầu khí, thì loài người đã có trong tay những nguồn năng lượng thay thế dồi dào và sạch hơn.
Đúng như lời của tác giả cuốn sách này, dầu mỏ (và khí thiên nhiên) đã tạo nên "những thay đổi vĩ đại" trong hơn một thế kỷ nay của lịch sử nhân loại. Qua những trang sách, độc giả sẽ nhận rõ, một mặt, những "cống hiến" to lớn của dầu mỏ đối với sự phát triển thần kỳ của thế giới, mặt khác, những "tội lỗi" tày trời trong việc tiếp tay cho những kẻ tham tiền bạc và những thế lực tham quyền lực gây ra chết chóc, bất công xã hội và những cuộc tàn phá kìm hãm nền văn minh nhân loại. Đó là chưa kể "tội" của dầu mỏ đang cùng với các nhiên liệu hóa thạch khác gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường và sự nóng lên của toàn cầu.
Và, khi gấp cuốn sách lại, chắc chắn độc giả sẽ đồng ý với tác giả Daniel Yergin rằng, biên niên sử mà tác giả đã trình bày hết sức sắc sảo và hấp dẫn trong cuốn sách này thật sự là "thiên sử thi về cuộc kiếm tìm dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực" trong quá khứ, hiện tại và cả trong tương lai.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dấu ấn một nhà báo - nhà ngoại giao tài ba
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay, bài viết của tác giả Trần Hoàng được đăng tải trên Báo điện tử Quân đội Nhân dân tại trang web qdnd.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Nhân 100 năm Ngày sinh của nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu (5/11/1924 - 5/11/2024), ngày 1/11 tới, tại Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam sẽ tổ chức Tọa đàm và Trưng bày chuyên đề “Nhà báo - nhà ngoại giao Lý Văn Sáu - một tấm lòng son sắt”. Đây là dịp để khẳng định, nhà báo - nhà ngoại giao Lý Văn Sáu là một trong những gương mặt tiêu biểu của báo chí cách mạng Việt Nam, để lại nhiều dấu ấn quan trọng trên mặt trận chính trị - ngoại giao phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển ngành phát thanh-truyền hình Việt Nam.
![]() |
Nhà báo - nhà ngoại giao Lý Văn Sáu (hàng đầu, thứ hai, từ phải sang) tại Paris (Pháp). Ảnh: Getty |
Một lòng theo cách mạng
Nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu, tên thật là Nguyễn Bá Đàn, quê ở xã Nhân Thành (Yên Thành, Nghệ An). Từ nhỏ, ông đã được gia đình định hướng theo đuổi học vấn nghiêm cẩn. Ông đỗ bằng tú tài toàn phần ban Triết lý tại Huế. Đây là cuộc thi tú tài cuối cùng của chế độ thực dân phong kiến được tổ chức tại Huế, ít tháng sau cuộc đảo chính của Nhật (ngày 9-3-1945). Được trang bị học vấn căn bản là bệ đỡ cho nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu rèn luyện khả năng tự học sau này. Ông chủ động và bền bỉ tự học tập, trang bị cho mình kiến thức tổng hợp, am tường nhiều ngoại ngữ. Không chỉ đồng chí, đồng nghiệp mà ngay cả đối phương cũng phải thừa nhận ông là một nhà trí thức uyên bác, am hiểu sâu sắc các nền văn hóa.
Cậu “Tú Đàn” sớm giác ngộ cách mạng. Ngay từ khi còn đi học ở Huế, năm 1944, ông đã tham gia quyên góp gạo cứu đồng bào bị đói. Năm 1945 về quê, ông tiếp tục dạy truyền bá quốc ngữ. Tại một cuộc họp thanh niên ở huyện lỵ Yên Thành, có ông Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên của chính phủ Trần Trọng Kim về dự, ông bất ngờ được tiến cử là “Thủ lĩnh thanh niên huyện”, có lẽ do các anh Việt Minh bí mật vận động.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Thế nhưng, nước nhà độc lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Trong những ngày Khánh Hòa kháng chiến, ông tham gia Thanh niên cứu quốc tại thành Diên Khánh, được tổ chức nhận ra có những năng khiếu phù hợp để làm báo, làm công tác thông tin tuyên truyền. Năm 1947, ông được giao nhiệm vụ làm Trưởng ty Thông tin tỉnh Khánh Hòa kiêm Tổng biên tập Báo Thắng (nay là Báo Khánh Hòa). Kỷ niệm đáng nhớ với nhà báo Lý Văn Sáu là gặp đồng chí Phạm Văn Đồng tại Hội nghị thông tin Liên khu V đầu năm 1948. Những lời động viên, định hướng của đồng chí Phạm Văn Đồng đã giúp ông giữ tinh thần lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn trăm bề, song nhà báo Lý Văn Sáu đã nhanh chóng thích ứng, có nhiều cách làm sáng tạo. Cùng với tờ Báo Thắng in bằng tiếng Việt, ông cùng các đồng chí ra tờ báo binh vận bằng tiếng Pháp đặt tên là “Le Trait d’Union” (Gạch nối), giúp binh lính Pháp hiểu được vì sao ta kháng chiến, vạch trần bộ mặt thực dân, kêu gọi họ phản chiến. Từ tháng 6/1949 đến cuối năm 1953, ông đảm nhận nhiệm vụ Phó giám đốc Đài Phát thanh kháng chiến “Tiếng nói miền Nam” đóng tại Liên khu V. Trọn những năm tháng tuổi trẻ nhà báo Lý Văn Sáu đã dâng hiến cho sự nghiệp báo chí, phát thanh, mang tiếng nói của Đảng, của cách mạng đến với người dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào thắng lợi của cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc.
![]() |
Nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu (ngồi thứ hai, từ phải sang) đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhì tại lễ trao tặng. |
Nhà ngoại giao sắc sảo
Sau Hiệp định Geneva, nhà báo Lý Văn Sáu tập kết ra Bắc, nhận nhiệm vụ tại Ban Thống nhất Trung ương. Năm 1962, ông bắt đầu sự nghiệp ngoại giao với cương vị Phó trưởng Cơ quan đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Cuba.
Từ tháng 1-1969 đến tháng 9-1973, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu tham gia Hội nghị Paris và sau đó là Hội nghị hiệp thương giữa hai bên miền Nam Việt Nam với tư cách ủy viên, cố vấn, người phát ngôn của Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Với vốn tri thức sâu rộng, cách ứng xử văn hóa, lịch thiệp, khả năng ứng biến tuyệt vời trước mọi tình huống, các cuộc họp báo do ông chủ trì sau mỗi phiên họp của hội nghị thu hút sự quan tâm sâu sắc của giới báo chí quốc tế.
Mặt trận đấu tranh dư luận không tiếng súng nhưng rất phức tạp và không ít khó khăn. Phải suy nghĩ thật kỹ trước mỗi phát ngôn bởi đằng sau đó là thế cuộc đất nước, là sự nghiệp mà biết bao con người đang lao động, chiến đấu và hy sinh quên mình, là trách nhiệm chính trị to lớn của người làm báo, làm ngoại giao.
Nhiều người vẫn nhắc lại những “pha” ứng khẩu xuất thần đã trở thành giai thoại của nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu, người phát ngôn của đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Tại một cuộc họp báo, có nhà báo Mỹ đưa ra tấm bản đồ khá lớn và hỏi: “Mặt trận của các ông thường khoe là kiểm soát được hai phần ba lãnh thổ miền Nam Việt Nam, vậy ông vui lòng chỉ cho tôi xem trên tấm bản đồ này các vùng giải phóng đó ở đâu?”. Không hề do dự, ông trả lời: “Điều ông hỏi cũng là điều Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn muốn biết. Xin ông hãy đọc thông cáo quân sự của Mỹ ngày hôm nay, xem máy bay của họ đã ném bom những nơi nào ở miền Nam Việt Nam thì những nơi ấy là vùng giải phóng của chúng tôi”.
Một lần khác, có nhà báo hỏi ông về việc chính quyền Sài Gòn khoe khoang bản chất tốt đẹp của họ? Ông Lý Văn Sáu đáp: “Con lạc đà chui qua lỗ trôn kim còn dễ hơn chính quyền Sài Gòn tự cho mình là độc lập, dân chủ, yêu nước”. Hôm sau, tờ báo Công giáo La Croix viết: “Người phát ngôn Việt Cộng cũng dùng đến ngụ ngôn trong Kinh Thánh”.
Nhiều đồng nghiệp cùng thời khẳng định, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu luôn nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Ông đã lý giải một cách ấn tượng về công việc của mình trong gần 5 năm ở Paris như sau: “Những người làm công tác phát ngôn báo chí chúng tôi trong chừng ấy năm trời chỉ nói bằng nghìn cách khác nhau một chân lý không gì thay đổi được, đó là: Nước Việt Nam là một, người Việt Nam dẫu ở miền Nam hay miền Bắc, cũng đều có nghĩa vụ thiêng liêng chung lưng đấu cật chống xâm lược Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.
Không chỉ nổi bật với những câu trả lời sắc sảo, nhạy bén tại các cuộc họp báo, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu còn tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại nhân dân, vận động Việt kiều, các tầng lớp nhân dân cũng như chính giới các nước chia sẻ quan điểm, đồng tình, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Khi đó, nhiều người bị bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Mỹ tác động nên chưa hiểu rõ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, chưa biết Việt Cộng là những người thế nào và chưa tin Việt Nam có thể chiến thắng. Khi giao tiếp với người dân các nước sở tại cũng như Việt kiều tại các nước châu Âu, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu đã khéo léo tuyên truyền, giải thích để mọi người hiểu rõ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam, đồng tình, ủng hộ quan điểm của Việt Nam về các giải pháp kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Cũng nhờ hoạt động tích cực đó, nhiều quốc gia trên thế giới ngày càng mở rộng phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ Việt Nam, nhiều nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam trước cả khi Hiệp định Paris được ký.
Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nguyên Trưởng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris cho biết: “Anh Lý Văn Sáu là một nhà báo tầm cỡ, được mọi người rất quý mến và nể phục. Anh rất sắc sảo trả lời câu hỏi hóc búa của các nhà báo quốc tế. Mặt khác, trên mặt trận đấu tranh dư luận, anh Sáu đã phát huy được sở trường, kinh nghiệm báo chí của mình, có những đóng góp rất quan trọng vào thắng lợi chung”.
Tận hiến với nghề báo
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, đồng chí Lý Văn Sáu được phân công giữ nhiều chức vụ quản lý cơ quan báo chí, đó là: Phó giám đốc Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Phát thanh và Truyền hình Việt Nam, Tổng biên tập Đài Truyền hình Trung ương (nay là Đài Truyền hình Việt Nam), Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam, Phó tổng biên tập Thông tấn xã Việt Nam.
Với bề dày kinh nghiệm làm báo và phát thanh từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, lại có cơ hội tiếp xúc với báo chí thế giới trong nhiều năm nên nhà báo Lý Văn Sáu đã có những chỉ đạo, định hướng làm báo rất nhạy bén, bắt kịp với xu thế hiện đại. Chẳng hạn, ông luôn mong muốn truyền hình phải đưa tin trực tiếp, đa chiều, có tính đối thoại với khán giả. Những điều này với báo hình ngày nay là hiển nhiên nhưng đặt trong bối cảnh truyền hình ở nước ta còn sơ khai thì tầm nhìn kể trên là cực kỳ mới mẻ.
Nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu còn tích cực tham gia nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm về nghề báo, thu hút sự quan tâm của đồng nghiệp, công chúng. Ông không chỉ truyền đạt những kinh nghiệm, kiến thức mà còn truyền cảm hứng, thắp sáng “lửa nghề” cho các đồng nghiệp trẻ.
Với Báo Quân đội nhân dân, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu luôn dành tình cảm đặc biệt. Ngoài tình cảm riêng với người con rể là Trung tướng Lê Phúc Nguyên, nguyên Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân, ông luôn dành cho Báo Quân đội nhân dân sự yêu mến và quan tâm sâu sắc, đánh giá cao vị thế và bản sắc độc đáo của tờ báo chiến sĩ. Những năm nghỉ hưu, tuy tuổi cao sức yếu, ông vẫn tích cực tham gia viết bài, viết thư đóng góp ý kiến, gợi ý cách lý giải, phân tích nhiều vấn đề thời sự, đặc biệt là lĩnh vực đối ngoại, nhằm nâng cao chất lượng các ấn phẩm của Báo Quân đội nhân dân.
Từ mùa thu Tháng Tám lịch sử năm 1945 cho đến khi từ giã dương thế vào ngày 30-4-2012, đúng vào ngày kỷ niệm 37 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhà báo-nhà ngoại giao Lý Văn Sáu đã tận hiến tâm huyết và sức lực cho sự nghiệp báo chí cách mạng, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tấm gương lao động tận tụy, trách nhiệm, niềm đam mê và tâm huyết với nghề báo của ông đã để lại những bài học quý đối với người cầm bút hôm nay.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Việt Nam: Ngôi sao đang lên của châu Á
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Tiêu Điểm được đăng tải trên báo điện tử Dân Trí tại trang web dantri.com.vn, sẽ được chia sẻ trong mục Podcast - Thời Sự ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Trước đại dịch Covid-19, chúng tôi (Brook Taylor từ New Zealand và Sam Korsmoe từ Hoa Kỳ) đã khởi xướng một dự án nghiên cứu về tương lai của Việt Nam.
Chúng tôi đã sống, làm việc và nghiên cứu về Việt Nam tổng cộng gần 60 năm. Chúng tôi đã là một phần của câu chuyện tăng trưởng kéo dài suốt ba thập kỷ qua của Việt Nam và chứng kiến các chỉ số đo lường sự phát triển cũng như thịnh vượng của một quốc gia dần được cải thiện trong suốt 25 năm qua.
![]() |
Việt Nam - Ngôi sao đang lên của châu Á |
Chúng tôi cùng thắc mắc, liệu điều đó đã xảy ra như thế nào? Quan trọng hơn, chúng tôi muốn biết liệu mô hình tăng trưởng của Việt Nam có thể tiếp diễn trong 25 năm tới hay không. Câu hỏi cơ bản của chúng tôi là: Liệu đây chỉ là một giai đoạn phát triển bùng nổ rồi sẽ dừng lại, hay sẽ thiết lập nền tảng cho sự tăng trưởng dài hạn và bền vững?
Những nỗ lực để trả lời các câu hỏi trên của chúng tôi đã được đền đáp với việc xuất bản cuốn Vietnam - Asia's Rising Star (bản tiếng Anh của Silkworm Books) và Việt Nam - Ngôi sao đang lên của châu Á (bản tiếng Việt của Quảng Văn và nhà xuất bản Hồng Đức).
Chúng tôi đã mang đến cho cuốn sách những kinh nghiệm và thế mạnh khác nhau. Brook là một doanh nhân, thành viên của Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh quốc (ACCA) và Tổng Giám đốc điều hành kiêm Giám đốc công ty Quản lý Quỹ VinaCapital. Còn tôi, Sam, là một nhà văn, giáo viên và đã nghiên cứu về Việt Nam từ năm 1990. Tôi đã viết luận văn thạc sĩ về Đổi mới và có thể nói được tiếng Việt. Sau nhiều cuộc thảo luận, chúng tôi quyết định đưa ra một dự báo (giả thuyết) về tương lai của Việt Nam. Đó là:
Việt Nam là con rồng kinh tế mới của châu Á và sẽ theo đuổi con đường phát triển của những con rồng kinh tế châu Á trước đó như Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc).
Có hai câu hỏi được đặt ra trong giả thuyết này. Đầu tiên là định nghĩa xem thế nào là một con rồng kinh tế. Nó là gì và một quốc gia cần những điều kiện gì để được xem là một "con rồng"? Chúng tôi đã xác định sáu tiêu chí và kiểm định từng tiêu chí với trường hợp của Việt Nam.
Các tiêu chí này bao gồm: (1) Số liệu -các chỉ số kinh tế - xã hội có sự tăng trưởng liên tục trong ít nhất 10 năm liên tiếp; (2) Xuất khẩu - có sự tăng trưởng trong chuỗi giá trị của các mặt hàng được sản xuất để phục vụ xuất khẩu; (3) Công nghiệp hóa - có các chính sách và cơ sở hạ tầng làm nền tảng để phục vụ quá trình công nghiệp hóa; (4) Chuyên môn - trình độ học vấn và kỹ năng của các nhân sự chủ chốt trong nền kinh tế và chính phủ ngày càng được cải thiện; (5) Thị trường - các sản phẩm Made-In-Vietnam tiếp cận được tới nhiều thị trường trên toàn cầu; và (6) Lãnh đạo - có hệ thống lãnh đạo chủ yếu dựa trên năng lực.
Câu hỏi thứ hai là liệu Việt Nam trong những năm 2020 và 2030 có thể lặp lại thành công mô hình tăng trưởng của Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) trong những năm 1980 và 1990 hay không?
Trong vòng 50 năm (từ 1950 đến 2000), Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đã phát triển từ các nền kinh tế thời hậu chiến, thuộc địa và nghèo đói trở thành các quốc gia và vùng lãnh thổ có thu nhập cao. Câu hỏi cơ bản mà chúng tôi đặt ra là liệu Việt Nam có thể làm được điều tương tự không. Để xem xét phần này của giả thuyết, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu, bao gồm sáu nghiên cứu tình huống và tám động lực kinh tế.
Chúng tôi đã chọn phương pháp giả thuyết cho dự án này vì một vài lý do. Thứ nhất, chúng tôi không phải là nhà báo, nhà kinh tế học, nhà sử học hoặc có mối quan hệ với bất kỳ chính phủ hay tổ chức nào. Thứ hai, chúng tôi không phải là người Việt Nam, nên chúng tôi muốn có một phương pháp nghiên cứu khách quan và khoa học nhất có thể. Chúng tôi không bao giờ nghĩ mình thực sự hiểu được trải nghiệm của người Việt Nam như cách mà họ cảm nhận. Thứ ba, phương pháp giả thuyết mang tính khoa học, chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là kiểm tra giả thuyết và báo cáo kết quả. Không có chỗ cho quan điểm cá nhân hoặc tẩy trắng những yếu tố cốt lõi.
Chúng tôi đã đầu tư rất nhiều thời gian để nghiên cứu về cái gọi là "Bẫy thu nhập trung bình", một "cái bẫy" thực sự mà nhiều quốc gia không thể "thoát" ra để trở thành các quốc gia có thu nhập cao. Dĩ nhiên, câu hỏi quan trọng nhất của chúng tôi là liệu Việt Nam có thể thoát khỏi cái bẫy này không?
Trong cuốn sách này, chúng tôi sẽ đưa ra câu trả lời chi tiết cho các câu hỏi trên. Đầu tiên, chúng tôi lập luận rằng Việt Nam sẽ là một con rồng kinh tế tiếp theo của châu Á, vì đất nước này thỏa mãn các tiêu chí mà chúng tôi đã đặt ra. Thứ hai, chúng tôi lập luận rằng Việt Nam rất có thể sẽ lặp lại được mô hình tăng trưởng của Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc). Điều này là nhờ các động lực kinh tế đã hỗ trợ sự phát triển của Việt Nam trong 25 năm qua.
Ngoài ra, chúng tôi cũng nghiên cứu về các động lực kinh tế đã giúp Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) thành công trong các giai đoạn phát triển nền kinh tế của họ. Sáu trong số những động lực này cũng có thể được áp dụng cho Việt Nam, nghĩa là Việt Nam có tổng cộng 14 động lực kinh tế riêng biệt để giúp nền kinh tế phát triển.
Đây là lý do chúng tôi lập luận rằng Việt Nam có khả năng thoát khỏi Bẫy thu nhập trung bình và trở thành một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2040 hoặc 2045.
Liệu sai sót có thể xảy ra không? Có quá đi chứ. Không có gì là chắc chắn cả. Chúng tôi đã dành trọn một chương để giải quyết câu hỏi này (Chương 11 - Những rủi ro phía trước). Vẫn còn nhiều vấn đề đang tồn tại như khoảng cách giàu nghèo, tham nhũng, năng lực của nhà nước, sự đảo ngược của thương mại tự do, môi trường, thay đổi văn hóa và rủi ro địa chính trị. Bất kỳ vấn đề nào trong số này cũng có thể trở thành những trở ngại lớn cho sự phát triển.
Sau khi đầu tư hơn ba năm để nghiên cứu, chúng tôi thường được hỏi xem đâu là khám phá khiến mình bất ngờ nhất. Có ba điểm vô cùng nổi bật, bao gồm:
Thứ nhất, văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Chúng tôi đã nghiên cứu xem Việt Nam là một quốc gia Đông Bắc Á hay Đông Nam Á. Về mặt địa lý, Việt Nam rõ ràng thuộc Đông Nam Á, nhưng chúng tôi phát hiện ra đất nước này lại có đặc điểm văn hóa tương tự như các quốc gia Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc…). Điều này bao gồm ảnh hưởng của Nho giáo, tinh thần làm việc chăm chỉ, tuân thủ kỷ luật xã hội và mô hình giáo dục đòi hỏi một nỗ lực học tập xuất sắc. Ngoài ra, Việt Nam có một ngôn ngữ chủ đạo trên toàn quốc và cơ cấu dân số tương đối thuận lợi cho phát triển.
Thứ hai, vai trò của phụ nữ tại Việt Nam, đặc biệt là trong nền kinh tế, quan trọng hơn rất nhiều so với hầu hết các quốc gia khác. Có rất ít rào cản văn hóa và xã hội để phụ nữ Việt Nam đảm nhận các vai trò lãnh đạo và kinh doanh. Do đó, tỷ lệ lao động nữ trong lực lượng lao động tại Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực châu Á và thế giới.
Thứ ba, nghiên cứu về bẫy thu nhập trung bình cho thấy sự phức tạp và khó khăn mà hầu hết các quốc gia gặp phải để "thoát" khỏi bẫy và trở thành các quốc gia có thu nhập cao. Đây là một điều rất khó khăn và hiếm gặp. Theo Ngân hàng Thế giới, từ năm 1960 đến nay mới chỉ có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ đã thoát khỏi Bẫy thu nhập trung bình. Bốn con rồng kinh tế châu Á: Hồng Kông (Trung Quốc), Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) cùng Nhật Bản đã chiếm một phần năm của nhóm này.
Trong giai đoạn từ 2001 đến 2023, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trung bình 6,23%/năm. Khi dự báo về tương lai, chúng tôi đưa ra ba kịch bản tăng trưởng: kịch bản tiêu chuẩn (tốc độ không đổi ở mức 6,23%), kịch bản thận trọng (5,23%) và kịch bản lạc quan (7,23%). Trong cả ba trường hợp, Việt Nam đều sẽ trở thành một quốc gia có thu nhập cao.
Chúng tôi kết thúc nghiên cứu này với ba gợi ý cho Việt Nam trong những năm 2020 và 2030, dựa trên những gì đã giúp nền kinh tế Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) thành công:
Nghĩ lớn - Vào giữa thập niên 1950 tại Nhật Bản và cuối thập niên 1970 tại Hàn Quốc, một nhóm tiên phong đã quyết định đăng cai Thế vận hội. Với Nhật Bản, khi đó Chiến tranh thế giới thứ hai mới kết thúc được 10 năm. Với Hàn Quốc, khi đó họ vẫn là một quốc gia đang phát triển với tài nguyên hạn chế và tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, những người tiên phong ở hai quốc gia này vẫn đưa ra đề xuất, thuyết trình với Ủy ban Olympic Quốc tế và giành quyền đăng cai Thế vận hội năm 1964 (Nhật Bản) và 1988 (Hàn Quốc). Vì sao Việt Nam không thể làm điều tương tự cho một Thế vận hội trong tương lai?
Nỗ lực lớn - Đài Loan (Trung Quốc) hiện là một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới về khoa học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực chip, bán dẫn. Thành tựu đó không bỗng dưng mà có, mà là một hành trình dài và gian khó với nhiều chính sách vĩ mô đúng đắn. Thế mạnh đáng kể nhất của Đài Loan (Trung Quốc) không phải là tài nguyên thiên nhiên, mà là nguồn nhân lực trình độ cao, trong đó có nhiều nhân tài từ nước ngoài trở về xây dựng ngành công nghiệp công nghệ thông tin.
Dám làm lớn - Morris Chang, sinh ra ở Trung Quốc đại lục, đã đến Đài Loan (Trung Quốc) vào năm 1987 và sáng lập Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC), một trong những công ty quan trọng nhất thế giới hiện nay. Đài Loan (Trung Quốc) cũng là quê hương của tòa nhà cao nhất thế giới, Taipei 101, từ năm 2004 đến năm 2010. Cũng trong khoảng thời gian đó, một nhóm kỹ sư Hàn Quốc đã quyết định rằng công ty của họ, Samsung, có thể trở thành nhà cung cấp lớn nhất thế giới về một sản phẩm mới gọi là điện thoại thông minh. Và họ đã thành công.
Con đường mà Việt Nam dường như đang đi đã từng được một số nền kinh tế khác đi qua. Có những mô hình phát triển và các nghiên cứu tình huống phong phú để học hỏi. Tài sản quan trọng nhất của Việt Nam không chỉ là 14 động lực mà chúng tôi đã phân tích trong sách, mà chính là 100 triệu con người đang sống và làm việc tại Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là họ khao khát lặp lại mô hình thành công của các con rồng kinh tế châu Á đến mức nào.
Tác giả: Ông Sam Korsmoe đến từ Mỹ, nghiên cứu về Việt Nam từ những năm 1990, đến nay đã có gần 18 năm sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Ông từng là Trưởng Văn phòng Thời báo kinh tế Việt Nam (1993-1997), Giám đốc điều hành Mekong Research Ltd. và MekongSources.com (1997- 2004). Ông cũng hoạt động như một nhà tư vấn giáo dục cho sinh viên Việt Nam nộp đơn vào các trường đại học tại Bắc Mỹ.
Ông Brook Taylor đã sống và làm việc tại Việt Nam từ năm 1997 và có hơn 22 năm kinh nghiệm quản lý, bao gồm hơn 19 năm là đối tác cấp cao tại các công ty kiểm toán lớn. Tại VinaCapital, ông Brook Taylor là Tổng Giám đốc điều hành kiêm Giám đốc Công ty Quản lý Quỹ. Chuyên môn của ông Brook Taylor trải rộng trên nhiều lĩnh vực quản lý và tài chính, bao gồm kế toán, lập kế hoạch kinh doanh, kiểm toán, tài chính doanh nghiệp, thuế và quản lý rủi ro. Ông có bằng MBA Quản trị Điều hành của INSEAD, bằng Cử nhân Thương mại và Quản trị của Đại học Victoria Wellington.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện (CEPA): Bước ngoặt lịch sử trong quan hệ hai nước Việt Nam UAE
Thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của Nhà báo Nguyên Minh đưa tin trực tiếp từ từ Abu Dhabi, UAE được đăng tải tại trang web congthuong.vn, sẽ được chia sẻ trong mục Podcast - Thời Sự ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chiều 28/10, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE CEPA đã được ký bởi Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE Thani bin Ahmed Al Zeyoudi ký kết Hiệp định CEPA - Ảnh: Dương Giang/TTXVN |
Chiều 28/10/2024 giờ địa phương, tại Dubai (UAE) Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính và Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) Mohammed bin Rashid Al Maktoum đã chứng kiến lễ trao văn kiện Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (Hiệp định CEPA) được ký bởi Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE Thani bin Ahmed Al Zeyoudi.
CEPA là Hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam ký với một nước Ả-rập, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ được nâng cấp và ngày càng đi vào thực chất giữa Việt Nam với UAE nói riêng cũng như các nước Ả-rập nói chung.
Hiệp định CEPA được ký kết trong bối cảnh quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và UAE đang phát triển mạnh mẽ. Việc ký kết Hiệp định sau khoảng thời gian kỷ lục một năm đàm phán với 5 phiên đàm phán chính thức, trong đó có 3 phiên trực tiếp ở cấp Bộ trưởng, là minh chứng rõ rệt cho cam kết đưa hợp tác thương mại - đầu tư giữa hai bên lên một tầm cao mới.
Hiệp định gồm 18 Chương, 15 Phụ lục và 2 thư song phương với các nội dung gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ - đầu tư, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS), hải quan, phòng vệ thương mại, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, pháp lý – thể chế. Trong đó, đáng chú ý là hai bên đã thống nhất đưa ra cam kết mạnh mẽ về tự do hóa thương mại với việc UAE cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình đối với 99% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang UAE, trong khi Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình cho 98,5% kim ngạch xuất khẩu của UAE sang Việt Nam. Hiệp định cũng bao gồm nhiều quy định tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, phù hợp với các xu hướng chuyển đổi số và phát triển xanh hiện nay.
Hiện nay, UAE là một trong những đối tác thương mại - đầu tư quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực Trung Đông, là cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận các thị trường trong khu vực này cũng như các thị trường khác ở Tây Á và Châu Phi. Ngoài ra, cơ cấu nền kinh tế và thương mại của hai nước mang tính bổ sung cho nhau.
Do vậy, CEPA là tiền đề thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh sang UAE và tiếp đó là các nước trong khu vực Trung Đông, Tây Á và châu Phi; đồng thời có cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, nguồn vốn và dịch vụ chất lượng của UAE, góp phần giảm chi phí sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Ngược lại, hàng hóa và dịch vụ của UAE sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN thông qua vị trí chiến lược của Việt Nam trong khu vực.
Nhân dịp này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có bài trả lời phỏng vấn báo chí, phân tích sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng và những nội dung cốt lõi của Hiệp định CEPA. Xin trân trọng kính mời bạn đọc theo dõi nội dung bài trả lời phỏng vấn trên Báo Công Thương điện tử.
Hiện UAE là thị trường xuất khẩu lớn nhất và là đối tác thương mại lớn thứ hai (sau Kuwait) của Việt Nam tại Tây Á. Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong giai đoạn 2018-2023, tổng trao đổi thương mại giữa hai nước bình quân đạt khoảng 5 tỷ USD/năm. Về cán cân thương mại, Việt Nam luôn xuất siêu sang thị trường UAE với giá trị lớn (từ 3-4 tỷ USD/năm).
Năm 2023, tổng trao đổi thương mại hai chiều đạt gần 4,7 tỷ USD, tăng 5,9% so với năm 2022, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt hơn 4 tỷ USD, tăng 4,3% và nhập khẩu đạt trên 676 triệu USD, tăng 16%. Trong 8 tháng đầu năm 2024, tổng trao đổi thương mại hai chiều đạt trên 4,47 tỷ USD, tăng 45% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt 3,85 tỷ USD, tăng 47,5% và nhập khẩu đạt 623,5 triệu USD, tăng 32,5%.
Về cơ cấu hàng hóa, các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang UAE gồm điện thoại di động, máy vi tính và linh kiện, sản phẩm điện, điện tử gia dụng, hạt tiêu, thủy sản, giày dép, hàng dệt may, sản phẩm ngũ cốc, sản phẩm nhựa, đồ gỗ nội thất… Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ UAE gồm chất dẻo nguyên liệu, khí đốt hóa lỏng (LPG), chế phẩm từ dầu mỏ, nguyên liệu thức ăn gia súc, kim loại thường, hóa chất…
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE: Tạo đột phá trong hợp tác kinh tế, thương mại
Chiều ngày 28/10/2024, giờ địa phương, tại Dubai (UAE) Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính và Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) đã chứng kiến lễ trao văn kiện Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (Hiệp định CEPA) được ký bởi Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Quốc vụ khanh Bộ Kinh tế UAE.
CEPA là Hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam ký với một nước Ả-rập, mở ra thời kỳ mới trong quan hệ được nâng cấp và ngày càng đi vào thực chất giữa Việt Nam với UAE nói riêng cũng như các nước Ả-rập nói chung.
Hiệp định CEPA được ký kết trong bối cảnh quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và UAE đang phát triển mạnh mẽ. Việc ký kết Hiệp định sau khoảng thời gian kỷ lục một năm đàm phán với 5 phiên đàm phán chính thức, trong đó có 3 phiên trực tiếp ở cấp Bộ trưởng, là minh chứng rõ rệt cho cam kết đưa hợp tác thương mại - đầu tư giữa hai bên lên một tầm cao mới.
![]() |
Lễ ký kết hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (Hiệp định CEPA) |
Hiệp định gồm 18 Chương, 15 Phụ lục và 2 thư song phương với các nội dung gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ - đầu tư, quy tắc xuất xứ, hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện pháp vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS), hải quan, phòng vệ thương mại, mua sắm của Chính phủ, sở hữu trí tuệ, pháp lý – thể chế. Trong đó, đáng chú ý là hai bên đã thống nhất đưa ra cam kết mạnh mẽ về tự do hóa thương mại với việc UAE cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình đối với 99% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang UAE, trong khi Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ thuế quan theo lộ trình cho 98,5% kim ngạch xuất khẩu của UAE sang Việt Nam. Hiệp định cũng bao gồm nhiều quy định tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, phù hợp với các xu hướng chuyển đổi số và phát triển xanh hiện nay.
Hiện nay, UAE là một trong những đối tác thương mại - đầu tư quan trọng hàng đầu của Việt Nam tại khu vực Trung Đông, là cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận các thị trường trong khu vực này cũng như các thị trường khác ở Tây Á và Châu Phi. Ngoài ra, cơ cấu nền kinh tế và thương mại của hai nước mang tính bổ sung cho nhau.
Do vậy, CEPA là tiền đề thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh sang UAE và tiếp đó là các nước trong khu vực Trung Đông, Tây Á và châu Phi; đồng thời có cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, nguồn vốn và dịch vụ chất lượng của UAE, góp phần giảm chi phí sản xuất và nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Ngược lại, hàng hóa và dịch vụ của UAE sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN thông qua vị trí chiến lược của Việt Nam trong khu vực.
Việc ký kết Hiệp định là dấu mốc lịch sử tạo đột phá quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư hai nước, mở ra con đường lớn cho Việt Nam tiến sâu vào thị trường Trung Đông - châu Phi.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh sự cần thiết phải sửa đổi Luật Điện lực
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Nguyên Vũ trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Chiều 26/10, Quốc hội thảo luận tổ về Dự án Luật Điện lực (sửa đổi). Tổng Bí thư Tô Lâm đã có ý kiến phát biểu với nhiều chỉ đạo, định hướng hết sức quan trọng.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm tại Tổ thảo luận số 12 |
Vì sao phải có Luật Điện lực (sửa đổi)?
Tổng Bí thư Tô Lâm nêu vấn đề “Vì sao lại phải có Luật Điện lực (sửa đổi) và chỉ rõ: “Yêu cầu đòi hỏi về hạ tầng năng lượng là một trong những vấn đề dẫn dắt, trụ cột, là một trong những điểm đột phá”.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, hiện nay chúng ta đang đứng trước thách thức thiếu điện trầm trọng. Vừa qua có một số nhà đầu tư đã nghiên cứu và dự tính, nếu Việt Nam phát triển như thế này thì độ vài năm nữa thiếu điện mà không xử lý được thì sẽ không đầu tư vào Việt Nam.
Tổng Bí thư nêu thực tế, các nhà đầu tư nước ngoài họ phải cân nhắc về sản lượng điện của Việt Nam có đủ cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ hay không trong tương lai gần hay không. Vừa rồi có một số nhà đầu tư đã vào thăm dò, nghiên cứu, thậm chí có dự án rồi nhưng cuối cùng lại quyết định đầu tư ở nước khác. Một trong những nguyên nhân là vì thiếu điện. Vậy làm thế nào để đáp ứng đủ nguồn năng lượng để phát triển? Đây là một câu hỏi, luật tức Luật Điện lực (sửa đổi) phải đáp ứng được yêu cầu.
Đáp ứng đòi hỏi “điện sạch”
Vấn đề thứ hai đặt ra, theo Tổng Bí thư Tô Lâm là điện sạch, Việt Nam đã cam kết năm 2050 đạt phát thải ròng bằng 0.
Nếu thiếu điện sạch, theo Tổng Bí thư “như thế này thì hàng hóa sản xuất chịu giá khác, chịu thuế khác, có đủ sức cạnh tranh đối với thế giới không"?
Người ta có những biện pháp để phòng vệ, họ bảo tôi điện sạch, ông “điện bẩn” thì làm sao bình đẳng được. Đây là “cuộc chơi” của thế giới, mình không thể tồn tại được, muốn phát triển điện sạch lên thì phải thấy gì? Thủ tướng cũng phát biểu rồi. Bây giờ không phải vì những nhà máy điện, nhiệt điện, điện, than, thủy điện đã đầu tư vào phải thu hồi đủ vốn thì mới cho ông khác phát triển.
“Đến lúc thu hồi được vốn thì thế giới đã đi đến đâu rồi, ông lạc hậu rồi, ông chả có gì trong tay. Kìm hãm như vậy là không được, phải giải quyết, không thể độc quyền kiểu như thế, phải phát triển” - Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Phát triển truyền tải, điều tiết điện lực
“Vừa rồi cũng có quan điểm nói quy hoạch thế nào, vận tải điện thế nào? Có những tỉnh chẳng sản xuất được kW điện nhưng tiêu thụ điện top đầu, trong khi đó những tỉnh sản xuất ra điện nhưng người dân vẫn chưa được dùng điện. Như vậy phải điều tiết, Chính phủ, nhà nước phải có nhiệm vụ này” - Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định.
Tổng Bí thư phân tích hiệu quả xây dựng đường dây 500 KV mạch 3 vừa qua. “Vừa qua điện sản xuất được, điện không đủ, vậy thì cứ phát triển công nghiệp, miền Trung sẽ phát triển trở thành trung tâm điện năng. Thế thì phải có mạch 3, phải có những đường dây vận tải đó”, Tổng Bí thư nêu tiếp thực tế chuyến công tác gần đây:
“Hôm trước tôi đi vào trong Quảng Trị thấy rất tiềm năng về phát triển điện sạch, điện gió, điện ngoài khơi. Các đồng chí báo cáo tính toán khoảng 10.000 MW/năm, khoảng 10.000 tỷ thu nhập từ năng lượng này. Chưa kể là mua từ Lào sang, Lào sản xuất được điện thì bán sang đây, đi vào đường Quảng Bình, Quảng Trị là gần nhất, thuận lợi nhất”.
“Mạch 3 đến Quảng Bình rồi, nối thêm sang Quảng Trị nữa ra Hưng Yên thì các tỉnh phía Bắc đủ điện. Trước đây, Hòa Bình có điện thì đường dây 500 kW chuyển tải điện vào miền Nam, bây giờ đường dây ấy chuyển ngược ra Bắc. Đấy là điều hòa, cân đối”, Tổng Bí thư chỉ rõ hiệu quả công tác truyền tải.
Thời gian không cho phép
Nhắc lại chủ trương mới của Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Bây giờ là mục tiêu phát triển, điện sạch cũng cân đối tất cả các nguồn. Điện gió có thuận lợi, điện mặt trời có thuận lợi, khó khăn… thì làm gì để mục tiêu năm 2045 đủ điện được? Phải phát triển điện hạt nhân, thế giới người ta cũng đang làm như thế.
Vừa rồi Hội nghị Trung ương 10 nhất trí phải khởi động lại, phải có chủ trương nghiên cứu về vấn đề này để xin ý kiến Quốc hội. Phải có chủ trương thì ít nhất 5-10 năm nữa may ra mới lại có nhà máy điện hạt nhân. Còn nếu mà không có nữa thì đến năm 2045 không kịp” - Tổng Bí thư phân tích.
Vì thế, theo Tổng Bí thư, để giải quyết tất cả những vấn đề đó, những bất cập đó thì Luật Điện lực (sửa đổi) phải định hướng, phải cụ thể hóa những chủ trương của Đảng. Phải đưa pháp lý làm sao để đảm bảo được yêu cầu đủ điện cho sản xuất, tiêu dùng, nhu cầu điện của quốc gia phát triển, điều tiết, quy hoạch thế nào, Quy hoạch điện VIII, điện IX như thế nào. Phải đảm bảo được nguồn điện sạch…
Trên cơ sở đó, theo Tổng Bí thư Tô Lâm, Việt Nam có thể công bố với thế giới năm nay sản lượng điện bao nhiêu, từ nguồn nào… “Người ta nhìn thấy ngay, thấy minh bạch, người ta thấy thì các nhà đầu tư yên tâm vào. Đấy là cái cấp bách của Luật điện lực (sửa đổi) phải đảm bảo được các yêu cầu như thế” - Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Tổng Bí thư cũng hoan nghênh sự vào cuộc kịp thời của Chính phủ và các bộ ngành đối với vấn đề này: “Rất hoan nghênh các cơ quan vào cuộc ngay, khi Trung ương có ý kiến về chủ trương điện hạt nhân thì trong Luật điện lực (sửa đổi - PV) xuất hiện ngay”.
Phải tính làm sao để đủ điện, công suất như thế nào, bố trí ở đâu, công nghệ gì? Đây mới là chủ trương, tất cả những việc đó phải bàn, phải tính đến để làm sao chúng ta phải rất chủ động.
“Định hướng thế này rồi chờ đến mấy năm nữa khảo sát, giải phóng mặt bằng, đi tìm công nghệ, đi tìm vốn nữa, trong khi 2045 đến nơi rồi, không chờ đợi được. Thời gian không cho phép, chúng ta phải làm những việc đó, đòi hỏi phải rất nhanh, rất đồng bộ trong những khâu này”- Tổng Bí thư chỉ đạo.
Tổng Bí thư cũng cho rằng: Nếu chờ đợi để hoàn chỉnh được hết, học tập hết kinh nghiệm nước ngoài thì rất khó. Chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thiện hoàn chỉnh nhưng với tầm nhìn để đáp ứng được nhu cầu, mục tiêu như vậy.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ các dự án gây lãng phí, yêu cầu có giải pháp 'gỡ vướng'
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Nguyên Vũ trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Tại phiên thảo luận Tổ ngày 26/10, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có những chia sẻ về nhiều vấn đề quan trọng, trong đó có ''lãng phí''.
Tổng Bí thư Tô Lâm đánh giá, sau 40 năm đổi mới, đất nước đã có những thành tựu và phát triển vượt bậc và chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về điều đó. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Tổng Bí thư cũng trăn trở, cần làm sao để phát triển kinh tế xã hội phải đi vào bền vững, thành quả phải đến tận tay người dân, nâng cao được mức sống của người dân, bộ mặt xã hội thay đổi.
![]() |
Tổng Bí thư Tô Lâm dự họp tại phiên thảo luận ở tổ của Quốc hội chiều nay 26/10 (Ảnh: Media Quốc hội). |
Và để có thể sử dụng nguồn lực thật tốt thì cần quan tâm đến vấn đề lãng phí.
Theo Tổng Bí thư Tô Lâm: Dân cho biết có nhiều mảnh đất vàng, nhưng tại sao chục năm rồi vẫn thấy cỏ mọc; phải có ai chịu trách nhiệm chứ, nhà nước cấp thế nào để lãng phí thế này, doanh nghiệp nào được cấp tại sao không làm, không làm thì thu lại theo quy định, tại sao lại để như thế được?
"Nếu vướng thì phải có tháo gỡ, phải có người chịu trách nhiệm. Các vụ án đưa ra, ai vi phạm đã xử lý rồi, tài sản là của Nhà nước, là tiền của của Nhân dân. Người dân họ thấy nói hay lắm, nhưng tại sao lại để thế này? Tỉnh làm, trung ương làm hay ai làm thì phải có địa chỉ chứ!?", Tổng Bí thư nhấn mạnh, đồng thời đưa ra 2 ví dụ cụ thể, đó là dự án phòng, chống ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh 10 nghìn tỷ, hai nhiệm kỳ rồi Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vẫn ngập lụt, tiền nhà nước bỏ ra rồi, nếu để mãi như thế thì lại vi phạm, không tham ô, tham nhũng thì tội lãng phí.
Thứ hai là hai bệnh viện ở Hà Nam, người dân không có bệnh viện, Nhà nước bỏ tiền ra xây rồi mà cũng chục năm rồi không được đưa vào sử dụng, vẫn cứ treo như thế, nếu mà của tư nhân thì họ thu hồi xong vốn, vốn đó được hoàn trả rồi, mà của Nhà nước thì vẫn là để không như thế, không có ai chịu trách nhiệm?. Đây là lãng phí, chưa nói là nếu ai tham ô, tham nhũng thì điều tra xử lý hết rồi, hoặc là chưa điều tra thì cũng quay lại để điều tra, để làm, để có kết luận đưa vào xử lý.
Đối với đầu tư công, Tổng Bí thư đề cập đến giải ngân vốn, trong đó nói đến việc “có tiền" không "tiêu được”. “Giải ngân vốn đầu tư công 9 tháng chưa được 50%, cả năm có tiêu được hết kế hoạch không?
Hỏi tại sao thì bảo vướng quy định này, vướng quy định kia, chương trình mục tiêu quốc gia có hết rồi, quyết định rồi nhưng bảo bây giờ đụng vào đất, mà đất rừng lại phải chờ Quốc hội để giải tỏa đất rừng này rồi mới triển khai được, thế cứ vướng cái nọ, vướng cái kia, thì nó là cái gì? Tại sao lại có những quy định cái nọ lại vướng vào cái kia như thế? Thì quy định là do ai, cũng là do mình cả thôi. Thế tại sao mình làm mình lại cứ vướng vào mình đủ thứ việc như thế, khó đủ thứ, thì khó đến đâu, phải gỡ đến đó.
"Tại sao lại quy định thế nào để đến chính mình không làm gì được, nhà nước cũng không làm được thì làm doanh nghiệp làm được?. Hàng trăm dự án, hàng nghìn dự án được bộ ngành, địa phương đã cấp cho doanh nghiệp, cấp giấy phép rồi nhưng mà đến quá trình triển khai cũng lại vướng cái này cái kia, rồi cứ đứng chờ nhau. Đất cũng được cấp rồi lại vướng không được thực hiện, vướng quy hoạch, vướng cái này cái kia, tất cả đều do mình cả, tự mình làm. Vậy thì bây giờ ai sẽ làm việc đó?", Tổng Bí thư đặt câu hỏi và nêu giải pháp: Phải có sự phối hợp, Chính phủ vướng thì trao đổi với Quốc hội, Quốc hội xem thế nào phải trao đổi với Chính phủ, không thể đổi lỗi cho nhau được, lại không thể chờ đợi nhau được, thì xung quanh đó là những câu chuyện lãng phí, nhưng cũng rất mừng và các đại biểu Quốc hội nhìn là thấy ngay. Dân nhìn thấy, đặt câu hỏi thì cũng phải tìm cách trả lời, mình cũng phải có trách nhiệm chứ không phải chỉ có phản ánh Quốc hội, phản ánh chung.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ khối Đại đoàn kết dân tộc sau Đại hội XIII
Bài 3: Vạch trần những âm mưu xuyên tạc tình hình kinh tế Việt Nam
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của nhóm PV: Nguyễn Sơn, Kim Thanh, Kiều Giang, Bùi Liên, trên báo điện tử Đảng Cộng Sản tại trang web dangcongsan.vn,được đăng tải trong mục Podcast - Chính Luận 35 của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Bất chấp những âm mưu xuyên tạc, thủ đoạn chống phá, nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những bước đi mạnh mẽ, xác lập vị thế là một trong những nền kinh tế năng động và có triển vọng của khu vực và thế giới.
Thực hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế, những năm gần đây, đặc biệt là từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước; phủ nhận những thành quả của đất nước trong phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, tác động làm thay đổi đường lối, chính sách kinh tế, kích động các hoạt động cản trở, chống lại việc thực hiện chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước.
![]() |
Việt Nam đang khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động và có triển vọng của khu vực và thế giới. |
Cố tình bóp méo, bôi đen hiện thực
L ợi dụng những hạn chế của nền kinh tế Việt Nam và việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam, một số cá nhân, tổ chức ở trong, ngoài nước đã đăng tải trên Internet, mạng xã hội những luận điệu suy diễn, xuyên tạc. Mưu đồ đằng sau những luận điệu này không gì khác là gây tâm lý hoài nghi, phân tâm trong xã hội, hướng tới làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Bên cạnh đó, các đối tượng cố tình xuyên tạc cho rằng, mô hình kinh tế thị trường gắn liền với chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), không có thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; gán ghép định hướng XHCN với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn…
Có đối tượng thì cố tình đưa ra những luận điệu xuyên tạc, đả kích vai trò, phương thức quản lý, điều hành nền kinh tế của Nhà nước. Những người này cho rằng, các cơ quan quản lý không đủ năng lực, trình độ, đang sử dụng quyền lực nhà nước để can thiệp vào các hoạt động kinh tế một cách trái quy luật, làm cản trở phát triển kinh tế hoặc bóp méo thị trường nhằm trục lợi. Từ đó, họ cho rằng, phải có sự chuyển hướng, “xoay trục” phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam theo nền kinh tế thị trường TBCN. Thậm chí, có đối tượng còn ngang nhiên xuyên tạc rằng, dường như Việt Nam đang “xoay trục” sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN bằng việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng sự điều tiết của thị trường.
Một số đối tượng khác lại tìm cách khoét sâu, thổi phồng những hạn chế, bất cập của nền kinh tế và những sai phạm, thiếu sót của các cá nhân, tổ chức trong các vụ án về kinh tế xảy ra ở một số bộ, ngành, địa phương để quy kết, nguyên nhân là do lỗi hệ thống, muốn khắc phục phải thay đổi thể chế kinh tế. Thậm chí, những người này còn cố tình xuyên tạc rằng, cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng đang làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế, chống tham nhũng đang khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, có thể ảnh hưởng xấu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu.
Đặc biệt, sau khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường ở Việt Nam, các đối tượng đã cố tình xuyên tạc, vu cáo cho rằng, nguyên nhân Hoa Kỳ từ chối nâng cấp Việt Nam lên nền kinh tế thị trường là do “nhà nước Việt Nam vẫn can thiệp sâu vào mọi khía cạnh của nền kinh tế”; “nền kinh tế Việt Nam đang không vận hành theo quy luật thị trường mà nằm dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Không những vậy, một số cá nhân, tổ chức ở bên ngoài còn tổ chức livestream dưới dạng “hội luận” với thành phần tham gia được gắn mác “chuyên gia”, “luật sư”, “tiến sĩ”… Mục đích không gì khác là bôi đen, đả phá nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, cổ xúy việc Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Một số phần tử phản động ở bên ngoài nhân cơ hội này đưa ra các luận điệu kiểu như “độc tài thì làm gì có cơ chế kinh tế thị trường”, “muốn có kinh tế thị trường phải có đa nguyên, đa đảng”…
Đây rõ ràng là những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc nhằm thực hiện mưu đồ đen tối, gây tâm lý hoài nghi, dao động, mất niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội. Đồng thời, làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ, đảng viên… Càng nguy hiểm hơn khi những luận điệu trên lại được núp bóng những “kiến nghị”, “góp ý”, “ý kiến tâm huyết” và được các đối tượng đăng tải, chia sẻ rộng rãi trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Youtube, Snapchat, TikTok… theo các tuyến bài với tần suất liên tục.
Những "con số biết nói" bác bỏ mọi xuyên tạc
Lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người chứng minh kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, đó là thành tựu phát triển cao của nền văn minh nhân loại, không thể và cũng chưa bao giờ là độc quyền của CNTB. Điều đó đồng nghĩa với việc, các nước XHCN, trong đó có Việt Nam có thể sử dụng mô hình kinh tế này để thúc đẩy kinh tế - xã hội theo những nguyên tắc, mục đích riêng phù hợp với điều kiện của quốc gia.
Phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ, Đảng, Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế phù hợp trình độ không đồng đều của lực lượng sản xuất, nhằm huy động tối đa sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội vào phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Cùng với phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, Đảng, Nhà nước ta xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Do đó, sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm để tạo đà cho sự phát triển chung của nền kinh tế.
Qua gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 40 - 43% GDP; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, tỉ lệ đóng góp thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34,1%; hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước… Đến năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân có khoảng 90.000 doanh nghiệp hoạt động.
Mặc dù coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, nhưng kinh tế nhà nước mới là thành phần giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế (trong đó có kinh tế tư nhân) theo định hướng XHCN, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Những năm qua, xuất phát từ thực tế một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, Đảng, Nhà nước ta đang chủ trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước nhằm huy động vốn đầu tư. Qua đó, nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, góp phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh.
Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Điển hình như, Vinamilk sau khi cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, quy mô tài sản liên tục gia tăng, khả năng tự chủ tài chính được cải thiện. Tính đến hết năm 2023, Vinamilk đã xuất khẩu đến gần 60 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 5.000 tỉ đồng. Bởi vậy, không thể nói rằng, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước là “tư nhân hóa” nền kinh tế quốc dân, là Việt Nam đang “xoay trục”, “chuyển hướng” sang phát triển kinh tế thị trường định hướng TBCN.
Thực tiễn việc tổ chức thực hiện đường lối đổi mới gần 40 năm qua ở Việt Nam đã đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Quy mô và tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng tăng lên, từ chỗ chỉ đạt 4,5 tỉ USD vào năm 1986, thì đến năm 2023 đã đạt 430 tỉ USD, đứng thứ 35 thế giới. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần không ngừng được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người trong những năm đầu đổi mới chỉ khoảng 250 USD/năm, thì đến năm 2023 đã đạt 4.284 USD, đứng thứ năm trong ASEAN.
Chống tham nhũng, tiêu cực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
Sinh thời, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đã trở thành xu thế không thể đảo ngược; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm nản chí, chùn bước, sợ sai không dám làm của cán bộ, đảng viên, mà chỉ làm chùn bước những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm.
Thực tế cho thấy, cuộc chiến tham nhũng đi vào thực chất, không có vùng cấm, không có ngoại lệ đã và đang nhận được sự đồng tình, ủng hộ tích cực từ người dân và tạo cơ chế thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội. Điều đó được thể hiện ở chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam tăng 40 bậc, từ xếp thứ 123 vào năm 2012 lên thứ 83/180 quốc gia và vùng lãnh thổ vào năm 2023.
Trong khi đó, tỉ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều, được Liên hợp quốc xếp là một trong những nước đứng đầu trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều cả nước còn 2,93%. Tỉ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33% (giảm 5,62%); tỉ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn khoảng 17,82% (giảm 3,2%).
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế với nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với những cam kết rất cao về tự do hóa thương mại và phát triển bền vững. Điều đó chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam ngày càng thích ứng với các điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế; đồng thời, đưa nước ta trở thành nền kinh tế có độ mở cao - tới 200% GDP.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2005 mới đạt 20,7 tỉ USD/năm, thì riêng năm 2022 đã đạt 732,5 tỉ USD, năm 2023 đạt 681 tỉ USD. Cán cân thương mại hàng hóa đã chuyển từ nhập siêu sang suất siêu 8 năm liên tục kể từ năm 2016, riêng năm 2023, xuất siêu đạt 28 tỉ USD, thuộc nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại hàng đầu thế giới; bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát tốt; nợ công năm 2023 ở mức khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều giới hạn quy định. Về thu hút đầu tư nước ngoài, năm 2023 thu hút được trên 39,4 tỉ USD, vốn thực hiện đạt 23,2 tỉ USD, lọt vào nhóm 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI.
Với các thành tựu đạt được, Việt Nam đang khẳng định vị thế là một trong những nền kinh tế năng động và có triển vọng của khu vực và thế giới. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam để phát triển kinh tế là rất to lớn.
Có thể thấy rằng, những quan điểm sai trái, xuyên tạc về kinh tế Việt Nam thực chất nhằm hướng đến mục đích duy nhất là làm chệch định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, từ đó làm chệch quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch này, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN Việt Nam nói chung và với đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước nói riêng.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Chính luận 35 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Luật Điện lực (sửa đổi) cần sớm được thông qua để giải quyết các vấn đề thực tiễn cấp bách
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Thu Hường trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Thảo luận tại tổ chiều 26/10, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng Luật Điện lực (sửa đổi) cần sớm được thông qua để giải quyết các vấn đề cấp bách
Chiều 26/10, tiếp tục chương trình làm việc của Kỳ họp thứ 8, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật Điện lực (sửa đổi) và một số nội dung quan trọng khác.
Sửa đổi Luật Điện lực - đòi hỏi cấp bách
![]() |
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại tổ vào chiều 26/10 (Ảnh: Văn Phúc) |
Báo cáo các đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận về dự thảo Luật Điện lực sửa đổi, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh: Điện là bánh mì của nền kinh tế. Điện phải đi trước một bước để bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Luật Điện lực được xây dựng từ năm 2004 và đến bây giờ đã bốn lần sửa, lần gần nhất là tháng 9/2023. Nhưng cả bốn lần trước chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều và đã giải quyết được một số vấn đề vướng mắc phát sinh.
"Nhưng trước đòi hỏi cấp bách về tăng trưởng điện năng theo quy hoạch, đến năm 2030 (tức là còn hơn 5 năm nữa) chúng ta phải đầu tư gấp hai lần số tổng công suất toàn hệ thống hiện nay. Hiện nay, tổng công suất gần 80.000MW trong khi vào năm 2030 phải đạt tối thiểu là 150.524MW, tức là gần gấp hai lần tổng công suất hiện nay. Đến năm 2050, tức là còn 25 năm nữa, phải đạt gấp 5 lần hiện nay, tương đương với mức 530.000 MW trên phạm vi toàn quốc”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay.
Theo Bộ trưởng, việc đòi hỏi phát triển nguồn điện lớn như vậy nếu không có những cơ chế bảo đảm, thông thoáng như một số đại biểu nói thì rõ ràng không thể thực hiện được. Hơn thế nữa, việc đạt mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 mà chúng ta đã cam kết với cộng đồng quốc tế thì quá trình chuyển dịch năng lượng ở nước ta cũng đòi hỏi một hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực này rất thông thoáng mới thực hiện được. Chúng ta phải phát triển năng lượng tái tạo, đồng thời phải chuyển đổi mạnh những nguồn điện có nguồn gốc hóa thạch từ than cho đến điện khí.
Điện khí trong giai đoạn đến năm 2030 vẫn có thể phát triển, nhưng sau năm 2030 không phát triển được nữa. Bởi vì điện khí phát thải tới 40% so với điện than. Hơn nữa, khí cũng là nguồn không phải vô tận, và giá của khí cũng theo thị trường. Cho nên cũng rất rủi ro, mà chúng ta không phải là quốc gia sở hữu nhiều sản lượng khí để cung cấp cho các nhà máy điện.
Lý do phải sửa đổi toàn diện
Bộ trưởng nhấn mạnh, Ban soạn thảo đã đề xuất với Chính phủ và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đồng thuận lấy cái tiêu đề của lần sửa đổi này là Luật Điện lực (sửa đổi) chứ không phải là sửa đổi, bổ sung một số điều vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khi giám sát hoạt động điện lực và thực hiện Luật Điện lực, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 937 ngày 13/12/2023, yêu cầu cần có quy định cơ chế tổng thể để giải quyết bất cập, vướng mắc trong lĩnh vực hiện nay. "Tổng thể thì chỉ có thể sửa một cách toàn diện chứ không thể sửa một số điều. Bởi vì sửa điều này được thì lại vướng điều khác. Do đó, cơ quan chủ trì soạn thảo tuân thủ Nghị quyết và triển khai theo quy định"- Bộ trưởng thông tin.
"Tôi về Bộ Công Thương gần bốn năm rồi. Bắt đầu từ ngày tôi về cho đến bây giờ, cứ thanh tra, kiểm tra, thậm chí là điều tra trong lĩnh vực này. Trên thực tế, nhiều vấn đề xảy ra từ trước, tất cả những vấn đề mà cơ quan chức năng chỉ ra, chúng tôi cố gắng đưa vào trong Luật Điện lực (sửa đổi) để gỡ vướng mắc"- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chia sẻ và cho biết, chiếu theo quy định hiện hành của Luật Điện lực là vi phạm, trong khi ngành điện rất đặc thù, khác hẳn với các ngành khác.
Bộ trưởng lấy ví dụ, quy hoạch về công nghiệp chẳng hạn, nếu như anh quy hoạch ở điểm này không làm thì có thể làm điểm khác. Anh sản xuất ra không bán cho nước này thì bán cho nước khác. Nhưng điện thì không thể như vậy. Đơn cử, thủy điện phải làm ở chỗ có nước. Chỗ nào có đủ các điều kiện thì mới phát triển điện chứ không thể tùy tiện đưa ra chỗ khác được. Như vậy, anh đã quy hoạch rồi thì chỉ có thể làm và nếu anh không làm thì phải giao cho người khác.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng chỉ ra thực tế việc thu hồi đất là không dễ và lấy dẫn chứng một dự án điện bị thu hồi và phát sinh nhiều phức tạp.
Thứ hai, cơ quan chủ trì soạn thảo đề xuất phải sửa toàn diện là vì chúng ta hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, cho nên việc phát triển lưới điện ASEAN và rộng hơn là khu vực Châu Á Thái Bình Dương đang diễn ra một cách rất chóng vánh. Nếu không sửa luật thì không thể thu hút đầu tư.
Thứ ba, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách mới. Thế nhưng trên thực tế thì chúng ta luật hóa chưa kịp. Ngay Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các nghị quyết sau này của Trung ương, chúng ta có quán triệt, có thể chế nhưng chưa tới tầm và hình như vẫn còn mâu thuẫn, chồng chéo giữa những luật này với luật khác. Rõ ràng là điện có đặc thù như vậy mà không ưu tiên để thực hiện theo Luật Điện lực thì rõ ràng công trình điện sẽ vô cùng khó khăn.
Lý do nữa là nhu cầu và điện năng của chúng ta tăng phi mã, cho nên cần phải sửa đổi Luật Điện lực để tháo gỡ khó khăn, giải phóng nguồn lực.
Đồng thời, nhiều loại hình nguồn điện có tiềm năng lớn ở trong nước, ví dụ như năng lượng tái tạo (điện mặt trời và điện gió) ở rất nhiều địa phương trong cả nước có tiềm năng để phát triển. Nhưng nếu không có cơ chế đồng bộ, khả thi thì phát triển lên một chút sẽ tiếp tục bị vướng mắc. Do đó, phải thiết kế lại đồng bộ và ưu tiên những công trình về điện phải thực hiện theo Luật Điện lực.
Bộ trưởng chia sẻ, nếu Luật Điện lực ban hành rồi lại phải tuân thủ những quy định của luật khác thì thật sự rất khó, và sửa ngay luật khác cũng không dễ nên những gì liên quan đến điện thì phải thực hiện theo Luật Điện lực.
Dự án khẩn cấp, lĩnh vực đặc thù cần có cơ chế đặc biệt
"Trên thực tế rất cần có những cơ chế đặc biệt để quyết định các chủ trương đầu tư cho các công trình điện khẩn cấp. Ví dụ như vừa rồi mưa bão, gió... cháy trạm hoặc đổ cột, nếu như phải tổ chức đấu thầu thì làm gì có thời gian. Trong khi điện là phải có ngay sau khi nước rút."- Bộ trưởng dẫn chứng.
Những công trình cấp bách thì đã quy định trong Luật Đầu tư, nhưng các công trình khẩn cấp chưa có. Ví dụ 10 năm nay chúng ta không hề có một dự án điện nguồn lớn nào cả. Các nhà đầu tư nhận phần để đấy, có những dự án nhận phần đến cả 15-17 năm nay không triển khai nhưng thu thì cũng không được. Nhưng cũng có dự án thu được rồi. Ví dụ gần đây một dự án ở Quảng Bình được nhà đầu tư Thái Lan trả lại, và để giao lại cho một doanh nghiệp của Nhà nước cũng không dễ, chưa nói gì đến doanh nghiệp tư nhân.
Chính phủ cũng không có thẩm quyền quyết định những công trình khẩn cấp. Cho nên trong Luật Điện lực lần này, phải thiết kế quy định trao cho các cấp có thẩm quyền (ở đây là Chính phủ), cơ quan hành pháp được quyết định những dự án khẩn cấp kể cả trạm, đường dây và các dự án nguồn, như vậy mới đáp ứng được tiến độ theo Quy hoạch điện VIII.
Luật Điện lực lần này sửa đổi căn bản những bất cập, vướng mắc phát sinh trong thực tế, kể cả vấn đề chế tài đối với các nhà đầu tư chậm tiến độ.
Bộ trưởng nêu ví dụ, nếu Quốc hội thấy có những vấn đề chưa đủ chín thì có thể trao quyền cho Chính phủ được thí điểm rồi báo cáo Quốc hội, nếu quy định cứng trong luật thì chỉ cần điều chỉnh, thay đổi dù chỉ là vấn đề rất nhỏ cũng phải đưa ra Quốc hội, sẽ làm mất cơ hội. Do đó, phải giữ tên của Luật, giữ được nội dung, tinh thần cái gì đã rõ thì chúng ta phải làm và đưa vào luật.
Vì sao phải trình Quốc hội xem xét thông qua. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay, Quy hoạch Điện VIII xác định đến năm 2030, chúng ta phải đạt gấp hai lần công suất hiện nay. Chúng ta chỉ còn 5 năm, mà Luật Điện lực (sửa đổi) không được thông qua trong năm nay thì không có cách nào để thực hiện được. Một dự án điện than (theo quy hoạch cũ mới được tiếp tục triển khai) cũng phải mất 5 - 6 năm. Dự án điện khí mất từ 7- 8 năm, nếu mà dự án điện hạt nhân khởi động bây giờ thì cũng phải mất khoảng 10 năm.
Bộ trưởng cho hay, các nguồn hiện tại không còn kể cả thủy điện, điện than chỉ còn 5-6 dự án theo quy hoạch cũ. Do đó, nếu chậm một ngày ban hành Luật Điện lực (sửa đổi) sẽ phải chậm hằng năm cho việc triển khai. Và như vậy, rủi ro mất an toàn điện năng và an ninh năng lượng điện của đất nước. Mặt khác, chúng ta phải chuyển đổi rất mạnh cơ cấu về nguồn để đạt Net Zero.
Nếu không sửa Luật Điện lực thì năng lượng tái tạo không thể phát triển, nhà đầu tư không dễ vào
Bộ trưởng lấy ví dụ, muốn phát triển 34.000 MW điện khí, nhà đầu tư phải bỏ ra từ 1,5-1,6 tỷ USD/1000MW. Bỏ khoản tiền lớn ra đầu tư mà không biết nhà nước bao tiêu sản lượng điện tối thiểu bao nhiêu thì nhà đầu tư không thể có phương án tài chính, do đó sẽ không dám đầu tư, nhà tài trợ không dám cho vay vốn.
Sản xuất sản phẩm công nghiệp nếu không bán ở Việt Nam, doanh nghiệp có thể bán cho nơi khác, nhưng điện là đáp ứng nhu cầu tại chỗ. Hơn nữa, điện phải trước một bước và điều này nhìn thấy rõ. Nhà đầu tư vào họ sẽ hỏi có điện không, thậm chí điện có sạch không?
"Cho nên chúng tôi đề xuất sửa, thông qua trong một kỳ họp và giải quyết được vấn đề là có được những cơ chế đủ mạnh để có thể thực hiện, vừa tăng nhanh về công suất nhưng đồng thời lại chuyển đổi rất mạnh về cơ cấu"- Bộ trưởng nhấn mạnh.
Có đại biểu băn khoăn dự thảo Luật Điện lực (sửa đổi) lần này tăng tới 60 điều so với luật cũ. Lý giải về điều này, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, về mặt thực chất chỉ là những quy định về những lĩnh vực mới mà trên thực tế chúng ta đã làm nhưng được điều chỉnh ở dưới dạng Nghị định và Quyết định. Chúng ta thấy rất nhiều nghị định không đầu và từ đó cũng có thông tư không đầu, tức là không có luật mà lại dẫn chiếu từ các luật khác có liên quan. Trên thực tế là như vậy, trong lĩnh vực năng lượng tái tạo vừa rồi ta làm đều là dạng như thế.
Lần này, chúng tôi cố gắng làm rõ hơn thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của các loại hình nguồn điện. Chúng ta nói nhiều về điện gió ngoài khơi nhưng đến giờ này không biết ai là cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư? không biết ai là người có thẩm quyền quyết định khảo sát đáy biển? khảo sát gió, cường độ, tần suất…. Bởi vì từ trước đến nay chúng ta chưa có nguồn điện này bây giờ mới có, cho nên chúng ta phải đưa vào luật, do đó làm tăng điều, tăng chương.
Về cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển năng lượng, tái tạo năng lượng mới, theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, đặc thù ở đây là đi ngược với Luật cạnh tranh, đi ngược với Luật Thương mại. Bằng chứng, nếu là thương mại thì “lời ăn lỗ chịu”, cạnh tranh cũng là như thế. Nhưng đối với lĩnh vực điện lực, nếu không đưa ra sản lượng tối thiểu cho một loại hình nguồn điện ( điện nền, điện khí, hay trong tương lai có thể là điện hạt nhân) thì không thể nào triển khai được.
Bộ trưởng lấy dẫn chứng, cho đến giờ, Quy hoạch điện VIII đã công bố đến hơn 1 năm, nhưng các nhà đầu tư rất uể oải. 11/13 dự án đã chọn được nhà đầu tư nhưng nhà đầu tư vẫn chờ, nghe ngóng chứ không dám làm, bởi vì họ có làm thì cũng không tìm được các nguồn tài trợ về vốn. Bởi đầu tư một nhà máy với nguồn vốn rất lớn thì phải có phương án thu hồi vốn.
Như vậy, dự thảo Luật Điện lực sửa đổi lần này chúng ta phải giải quyết được bài toán là có cơ chế đặc thù và giao cho Chính phủ quy định cơ chế đặc thù, ở đây là quy định sản lượng điện tối thiểu. Bao tiêu sản lượng điện tối thiểu cho những dự án điện nguồn, điện nền tập trung.
Tiếp theo, phải chấp thuận giá khí theo giá thị trường và như vậy giá điện cũng phải theo giá thị trường. Hiện khí LNG chúng ta phải mua của thế giới, nhưng đầu ra điện lại quy định giá để đảm bảo an sinh, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Cho nên, Luật lần này có quy định rất rõ, phát triển thị trường điện trên cả 3 cấp độ: Phát điện cạnh tranh, bán buôn cạnh tranh, bán lẻ điện cạnh tranh. “Một số nguồn điện nền rất cần có những cơ chế đặc thù thì phải quy định”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Giải bài toán khó giá điện
Theo Bộ trưởng, những cơ chế, chính sách chủ đạo để xây dựng, phát triển thị trường điện cạnh tranh ở 3 cấp độ (cơ chế thị trường) nhưng phải có sự quản lý của nhà nước. Chúng ta khác với các nước ở chỗ đó, nhất là vấn đề giá sản xuất, giá kinh doanh điện, phí truyền tải, điều độ…
Liên quan đến giá điện, Bộ trưởng cho hay, thực tế giá điện của chúng ta hiện nay chưa phản ánh đúng, phản ánh đủ giá thành điện năng, chúng ta mới cơ bản tính được giá sản xuất ở thị trường giao ngay so sánh với giá bán ra theo quy định của Nhà nước, một loại giá nhưng 6 bậc.
Bộ trưởng giải thích, thực tế giá, phí truyền tải điện rất lớn, đơn cử như hệ thống truyền tải từ Ninh Thuận ra phía Bắc, ngoài chi phí đầu tư hệ thống truyền tải, chi phí hao hụt đường dây, chi phí điều độ vận hành hệ thống điện cộng vào mới ra giá sản xuất, giá thành điện năng. Nhưng thực tế, từ trước đến nay hệ thống truyền tải do nhà nước đầu tư, EVN hưởng lợi từ đầu tư này, giá và phí truyền tải có được tính trong giá thành điện năng nhưng tỷ lệ rất thấp, vào khoảng 5-7% trong cơ cấu giá điện, trong khi thực tế giá và phí truyền tải, điều độ, vận hành hệ thống điện phải chiếm khoảng 30% mới đúng bản chất của giá thành.
Từ thực tế đó, trong dự thảo Luật Điện lực sửa đổi lần này, cơ quan soạn thảo phải từng bước bóc tách, ngay cả cơ chế giá thì phải là giá điện 2 thành phần ( giá điện năng và giá công suất). Như vậy, khách hàng A không sử dụng điện nhưng đã tham gia vào lưới điện là phải trả một loại phí, nó giống như thuê bao điện thoại ngày trước. Thuê bao là ai cũng phải trả để duy trì an toàn, còn khách hàng dùng hết bao nhiêu thì trả bấy nhiêu. Khung giá theo giờ thị trường thì phải như vậy, lúc nắng nhiều thì giá điện rẻ, nhưng đến khi hết nắng, hết gió hoặc những lúc phải dùng nguồn điện nền giá cao thì phải chấp nhận giá cao. Nhưng chúng ta cứ bình quân cho nên bài toán phải là khung giá theo giờ.
Bộ trưởng nhấn mạnh, phải từng bước bóc tách giá và phí truyền tải ra khỏi giá thành điện năng, chừng bào bóc tách ra được và cân đối tương đối phù hợp thì mới có nhà đầu tư trong lĩnh vực truyền tải.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho hay, cơ quan soạn thảo sửa điểm 2, Điều 4 của dự thảo Luật từ tháng 9/2023 nhưng đến giờ không có một nhà đầu tư nào hỏi đến chuyện đầu tư về hệ thống truyền tải. Bởi họ thấy mức phí truyền tải rất thấp, trong khi đó đầu tư thì rất cao và rủi ro vận hành hệ thống lại rất lớn, cho nên không ai làm.
“Do vậy phải bóc tách từng bước giá và phí truyền tải, phí điều độ hệ thống điện ra khởi giá thành điện năng, cân đổi để làm sao đủ điều kiện, đủ sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực này”- Bộ trưởng nhấn mạnh và khẳng định: “Cơ chế để có thể quyết định chủ trương đầu tư đối với những công trình điện khẩn cấp như tôi đã báo cáo ở trên được phép chỉ định, được phép giao, nếu không thì rất chậm”.
Phân cấp phân quyền, quy định chi tiết quyền của Chính phủ để tháo gỡ nhiều vướng mắc
Liên quan đến cơ chế xử lý đối với dự án điện chậm tiến độ để bảo đảm an ninh năng lượng điện quốc gia, theo Bộ trưởng, hiện chúng ta chỉ có mỗi cơ chế theo Luật Đầu tư về xử phạt. Nhưng phạt cũng chẳng được bao nhiêu mà cốt lõi là không có điện và ảnh hưởng rất lớn đến an ninh năng lượng quốc gia.
Đặc biệt, trong dự thảo luật thì có nhiều điều thuộc thẩm quyền của Chính phủ như các đại biểu nêu, qua thảo luận đại biểu Quốc hội chuyên trách và qua góp ý ở các Đoàn đại biểu có đại biểu cho rằng, chưa đúng với nguyên tắc làm luật, tức là luật cũng không nên chi tiết quá. Bộ trưởng cho hay, quan điểm xuyên suốt từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến nay là không làm luật khung, luật ống.
Gần đây, lãnh đạo Đảng, Nhà nước thống nhất chủ trương phải thay đổi tư duy làm luật, theo đó đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giao cho các cơ quan chức năng. Quan điểm mới được triển khai trong khi dự thảo Luật được xây dựng từ được gần 2 năm, do đó có những nội dung được quy định chi tiết đến thẩm quyền của Chính phủ.
“Những năm qua luật được vận hành có nhiều nội dung chưa điều chỉnh, trong khi các luật có liên quan khác có quy định nhưng không rõ ràng, thậm chí còn mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Thực tế đang đòi hỏi chúng ta phải có những quy định rất là linh hoạt”- Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên thông tin.
Để giải quyết được thực tiễn và thực hiện được các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước, trên thực tế Chính phủ đã phải ban hành các văn bản dưới luật như Nghị định, Nghị quyết, Quyết định để điều chỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, nay sửa Luật Điện lực sẽ được thực hiện một cách tổng thể và phải luật hóa những điều đã nêu trong các Nghị định, Nghị quyết, Quyết định của Quốc hội, của Chính phủ trước đây để cho minh bạch.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên khẳng định sẽ tiếp thu ý kiến của các đại biểu, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ thiết kế lại theo hướng chỉ đưa vào luật những điều khoản quy định thẩm quyền của Quốc hội, còn những nội dung chi tiết sẽ giao cho Chính phủ quy định, kể cả việc thí điểm đối với những vấn đề mới, những cơ chế, chính sách mới và báo cáo lại Quốc hội. Đảm bảo đúng tinh thần cải cách, tinh thần mới trong làm luật. Sẽ có những văn bản dưới luật để cụ thể hóa điều này.
Đối với trình tự, thủ tục và thẩm quyền quyết định các dự án điện, Bộ trưởng cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ tiếp thu ý kiến các đại biểu về câu chữ hoặc không mâu thuẫn, chồng chéo với các luật khác. Sẽ nghiên cứu, thiết kế lại, bảo đảm đơn giản, thuận tiện nhưng không buông lỏng quản lý và các cơ quan được phân cấp, phân quyền nhiều hơn. Tinh thần Chính phủ và Bộ chỉ làm 3 việc: (i)Quy hoạch, kế hoạch, (ii) cơ chế chính sách và (iii) là thanh tra, kiểm tra. Còn cấp phép, cấp chủ trương đầu tư cơ bản là giao cho chính quyền cấp tỉnh, thành phố.
Bộ trưởng cũng đồng tình với ý kiến của đại biểu kiến nghị về sửa Luật Quy hoạch thì phải bổ sung quy hoạch điện cấp tỉnh, bởi nếu chỉ quy hoạch điện quốc gia sẽ dẫn đến mâu thuẫn và ách tắc. Bởi hiện nay chúng ta quy định là dưới 110kV là do địa phương quyết định.
"Giờ chúng ta chủ trương phát triển tối đa nguồn năng lượng tái tạo, như vậy trên địa bàn của một địa phương sau này dày đặc công trình điện, nếu chỉ có quy hoạch điện quốc gia mà không có quy hoạch điện địa phương sẽ rất khó thực hiện, do vậy cần phải có quy hoạch điện của địa phương và phải đồng bộ với quy hoạch điện quốc gia”- Bộ trưởng chia sẻ.
Bộ trưởng khẳng định, cơ quan soạn thảo sẽ thiết kế theo hướng triệt để phân cấp, phân quyền áp dụng công nghệ trong quản lý, xóa bỏ cơ chế xin cho, thực hiện đúng chức năng là quản lý nhà nước trên 3 nội dung chính: Quy hoạch, kế hoạch, cơ chế chính sách và thanh tra kiểm tra.
Đồng thời, tiếp thu tất cả ý kiến các đại biểu, và sẽ cố gắng soi chiếu để đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện hành. Tinh thần chung, Luật Điện lực phải được ưu tiên để áp dụng khi mà triển khai các dự án liên quan đến điện, nếu như các dự án liên quan đến điện lại phải thực hiện đồng thời với lại các quy định của các luật khác có liên quan trong khi đó luật điện lực đã có quy định cụ thể thì thật sự sẽ là rất khó khăn.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đại biểu Quốc hội: Xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) có ý nghĩa vô cùng quan trọng
Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề bài viết của PV Quỳnh Nga trên Báo Công Thương tại trang web congthuong.vn sẽ được đăng tải trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương, kính mời quý vị cùng lắng nghe.
Đại biểu cho rằng, việc trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) với 6 chính sách lớn phù hợp với thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
![]() |
Đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm - đoàn Sóc Trăng |
Tạo hành lang pháp lý mang tính ổn định, lâu dài
Góp ý về Luật Điện lực (sửa đổi) tại phiên họp tổ Quốc hội chiều 26/10, đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm - đoàn Sóc Trăng cho biết, trên cơ sở đánh giá, tổng kết các tồn tại, vướng mắc, khó khăn trong thi hành Luật Điện lực thời gian qua, đặc biệt là các vướng mắc liên quan đến tính chưa đồng bộ, thiếu cơ sở pháp lý, quy định pháp luật, cơ chế đặc thù trong thực hiện đầu tư các dự án điện..., việc trình Quốc hội đề nghị xây dựng Luật Điện lực (sửa đổi) với 6 chính sách lớn và sửa đổi chủ yếu 62 điều, bỏ 4 điều, bổ sung 68 điều với một số điểm mới, phù hợp với thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Theo đại biểu, các tài liệu được công bố, lộ trình ngắn - trung hạn, cần phải tăng tổng nguồn cung điện 10-15%/năm mới đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của toàn nền kinh tế quốc gia, và trong dài hạn là phải theo lộ trình hướng tới mục tiêu Net-Zero (trung hoá Carbon) vào năm 2050 mà Thủ tướng Chính phủ đã cam kết tại COP26.
Qua quá trình nghiên cứu các văn bản được trình tại kỳ họp này, về chính sách phát triển năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới (tại khoản 8, điều 5) và phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới (mục 1,2 chương III), đại biểu rất đồng tình ủng hộ các chính sách cụ thể để phát triển năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay và xu hướng của thế giới.
Đại biểu đề xuất, dự thảo Luật cần thể hiện cơ chế cụ thể, đồng bộ và nhất quán với chính sách phát triển năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới (tại khoản 8, điều 5). Trước mắt, tiếp tục thực hiện tốt quan điểm của Chính phủ về thí điểm dự án như hiện nay, gia tăng nội lực, hướng đến làm chủ công nghệ, ít nhất ở khâu vận hành, bảo trì, bảo dưỡng và tiến tới nội địa hóa các thiết bị.
Đồng thời, xem xét thúc đẩy các cơ sở nghiên cứu, các tổ chức khoa học, đầu tư nguồn lực để chúng ta chủ động trên sân nhà trong việc khuyến khích phát triển điện gió ngoài khơi (các dịch vụ sau đầu tư của dự án điện gió hiện nay vẫn phụ thuộc gần như tuyệt đối vào các hãng tuabin).
Để hướng đến giảm phát thải, netzero cũng như thúc đẩy khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, chúng ta đã có nhiều cơ chế và đã đạt được nhiều thành quả (tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện tăng cao).
Tuy nhiên, để duy trì sự ổn định và nâng cao hơn nữa các nguồn điện sạch thì cần những giải pháp kỹ thuật/phương án hạn chế/bổ sung cho sự thiếu ổn định của nguồn điện sạch này thông qua việc: Xem xét xây dựng các trung tâm/dự án lưu trữ năng lượng quốc gia ở những nơi có tiềm năng về năng lượng (Sử dụng pin lưu trữ điện). Sớm hoàn thiện khung pháp lý cho các dự án thủy điện tích năng đang đầu tư xây dựng, hay các dự án khác đã có trong kế hoạch điện VIII.
Đại biểu đề xuất Luật Điện lực cần nghiên cứu và tạo hành lang pháp lý mang tính ổn định, lâu dài; tạo điều kiện cho các chính sách cụ thể để thể chế hóa các chủ trương, mục tiêu tại Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị trong việc khuyến khích phát triển các ngành điện sau khi các quy định khuyến khích về cơ chế giá FIT hết hiệu lực để tránh lãng phí nguồn lực của xã hội. Đồng thời, đảm bảo sự phát triển ổn định của hệ thống điện trong xu thế tỷ trọng năng lượng tái tạo ngày một tăng cao.
Về hành lang an toàn công trình điện gió, bà Triệu Thị Ngọc Diễm nhận xét, nhiều công trình, dự án nhà máy điện gió ở nước ta được triển khai trên đất liền. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành thì đối với công trình năng lượng chỉ có 3 loại công trình có hành lang bảo vệ an toàn (để đáp ứng điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất hoặc hỗ trợ khi giảm khả năng sử dụng đất theo quy định pháp luật của Luật Đất đai) là công trình đường dây dẫn điện trên không, đường dây ngầm và trạm điện.
Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng chưa quy định cụ thể về “Hành lang an toàn công trình điện gió”, “Hành lang an toàn của cột tháp gió” do thiếu cụm từ “bảo vệ” nên nhiều địa phương gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong công tác đền bù, hỗ trợ cho người dân do hạn chế quyền sử dụng đất bị ảnh hưởng bởi hành lang công trình điện gió. Trong khi các cột tháp gió cũng là một bộ phận trong công trình điện gió.
Thực tế quá trình thi công và vận hành, cánh quạt gió lại nằm ngoài ranh giới giải phóng mặt bằng thu hồi đất của cột điện gió. Do đó, khi gặp sự cố sẽ ảnh hưởng tới sản xuất của người dân. Cụ thể gần đây có tình huống sét đánh vào cột gió rồi lan truyền dẫn đến thiệt hại tôm cá của người dân trong phạm vi dự án.
Theo đó, đại biểu đoàn Sóc Trăng đề xuất nghiên cứu, bổ sung nội dung quy định hành lang bảo vệ đối với công trình, dự án điện gió để làm cơ sở cho các Bộ, ngành liên quan xây dựng cơ chế, chính sách đền bù, hỗ trợ phù hợp. Đồng thời, xem xét bổ sung tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn để đảm bảo công trình điện gió không tác động xấu đến các tài sản/công trình xung quanh.
Phát triển bền vững nguồn điện tái tạo, năng lượng xanh
Đại biểu Lý Tiết Hạnh - đoàn Bình Định nhận thấy, việc nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Điện lực mới thay thế cho Luật Điện lực năm 2004 là rất cần thiết và Dự thảo luật đã được nghiên cứu khá công phu.
Tham gia một số ý kiến, đại biểu cho rằng, về tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật, dự thảo Luật quy định một số nội dung mới như: Chính sách phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới, điện hạt nhân. Những quy định này cần được kiểm nghiệm thực tế, đánh giá, hoàn thiện để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong việc triển khai.
Do đó, đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đối chiếu các quy định của dự thảo Luật với các luật có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, nhất là các luật đang được xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.
Thứ hai, về tính khả thi của dự án Luật, qua rà soát chúng tôi thấy rằng, hiện nay, trong dự thảo Luật hiện nay có tới 35 nội dung giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết và 18 nội dung giao Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương hướng dẫn, do vậy, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát và nghiên cứu bổ sung quy định đảm bảo phù hợp, khả thi, đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, tại Điều 4 “Giải thích từ ngữ”, Luật Điện lực là bộ luật tính chuyên môn kỹ thuật rất cao, vì vậy theo đại biểu phần giải thích từ ngữ phải rất sát với cách tiếp cận từ luật này. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát các định nghĩa, khái niệm trong luật.
Đại biểu dẫn ví dụ, về ngữ nghĩa, giải thích lại từ “An toàn công trình thủy điện” và từ “An toàn điện” theo giải thích được hiểu là “các biện pháp tổ chức và phương tiện kỹ thuật”. Như vậy, nội dung giải thích 2 khái niệm này chưa tương thích với nhau. Một bên an toàn là chỉ về thực trạng, còn nội dung toàn bộ nội hàm giải thích lại có tính các hành động, quy định để đảm bảo sự an toàn đó.
Bên cạnh đó, trong dự thảo luật nhiều cụm từ "chi phí hợp lý, hợp lệ" và "lợi nhuận hợp lý", “bảo vệ công trình điện lực” và cụm từ “bảo đảm an toàn điện lực” xuất hiện nhiều lần, về nội hàm các thuật ngữ này tính chuyên môn rất cao, và chi phối đến các nội dung, điều luật cụ thể.
Chẳng hạn như cụm từ "chi phí hợp lý, hợp lệ" và "lợi nhuận hợp lý" xuất hiện nhiều lần trong việc xác định giá điều độ vận hành hệ thống điện, giá điều hành giao dịch thị trường điện lực, giá truyền tải điện, lập quy hoạch, đấu thầu; còn cụm từ “bảo vệ công trình điện lực” và cụm từ “bảo đảm an toàn điện lực” được sử dụng nhiều lần và toàn bộ các điều từ Điều 102 đến Điều 108 và từ Điều 110 đến Điều 115 Chương VII. Tuy nhiên, chưa được giải thích cụ thể.
Vì vậy, đại biểu đề xuất Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung giải thích thêm các từ ngữ nêu trên mà mang tính chuyên môn kỹ thuật cao và có ảnh hưởng tác động trực tiếp đối với các điều luật ở trong dự thảo.
Đại biểu cũng đồng tình cao về chính sách của Nhà nước về phát triển điện lực, đặc biệt là chính sách phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới tại khoản 9 điều 5.
Song để đảm bảo phát triển bền vững nguồn điện tái tạo, điện năng lượng, năng lượng xanh, đại biểu đoàn Bình Định kiến nghị trong luật cần tiếp tục rà soát, tham chiếu các quy định pháp luật liên quan để có quản lý, phát triển, sử dụng phù hợp. Đồng thời, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung 1 khoản hành vi bị cấm vào điều 8 dự thảo Luật đó là: “Thải ra môi trường các chất thải nguy hại tới môi trường từ các nhà máy điện, công trình điện…
Băn khoăn về sử dụng đất, sử dụng khu vực biển cho các dự án điện (điều 25), đại biểu nhận định, các dự án điện gió ngoài khơi hiện nay vẫn chưa có quy định cho thuê mặt nước biển để thực hiện. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, xem xét, báo cáo cơ quan có thẩm quyền đề xuất bổ sung quy định về cho thuê mặt nước biển để có căn cứ pháp lý thực hiện các dự án điện gió ngoài khơi.
Đại biểu kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định về "trách nhiệm của nhà đầu tư" tại Điều 23 trong việc sử dụng đất và sử dụng khu vực biển nhằm bảo vệ quyền lợi của cộng đồng dân cư và sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia.
Cuối cùng, với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp ô tô điện, ngày càng nhiều người tiêu dùng lựa chọn xe điện như một giải pháp thay thế, vừa tiết kiệm vừa thân thiện với môi trường. Từ đó, đầu tư vào hệ thống trạm sạc để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật cũng chưa đề cập đến nội dung này.
Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung chính sách của Nhà nước về phát triển điện lực quy định về đầu tư xây dựng hệ thống các trạm sạc điện như: Quy hoạch; giấy phép hoạt động điện lực; an toàn điện; quản lý, vận hành… Đồng thời, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, xem xét đưa vào dự thảo nội dung quy định cấp Giấy phép hoạt động điện lực đối với việc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng trạm sạc tại Chương IV Giấy phép hoạt động điện lực.
Chủ động, linh hoạt hơn trong công tác cấp phép hoạt động điện lực
Đại biểu Hoàng Ngọc Định - đoàn Hà Giang góp ý, tại Khoản 2. Điều 14. Nội dung lập, phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch nêu “2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tỉnh, trong đó có kế hoạch thực hiện phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh”.
Ông Định đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tỉnh. Điều này để sớm thống nhất trong quá trình tổ chức thực hiện.
Tại Khoản 2, Điều 18. Quy định chung về đầu tư xây dựng nêu: “2. Các trường hợp không phải đánh giá phù hợp với Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh: a) Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật này; b) Dự án lưới điện trung áp”. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ nội dung khoản 2 Điều 18, đại biểu cho rằng, theo quy định Khoản 2 Điều 10 Dự thảo quy định: Tổng khối lượng lưới điện trung áp là một nội dung quan trọng thuộc phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh trong quy hoạch tỉnh.
Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo đã quy định các trường hợp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Mặt khác, việc đầu tư công trình lưới điện trung áp theo quy hoạch giúp cơ quan nhà nước tại địa phương phát huy hiệu quả công tác quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư xây dựng công trình điện của các đơn vị đện lực và các chủ đầu tư, đảm bảo không vượt quá quy mô tổng khối lượng lưới điện trung áp trên địa bàn dẫn đến những biến động bất thường về nhu cầu nguồn cấp điện, phá vỡ kết cấu quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh.
Ngoài ra, theo quy định Khoản 1, Điều 4 Luật Xây dựng sửa đổi, bổ sung. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đầu tư xây dựng của Luật Xây dựng: “Bảo đảm đầu tư xây dựng công trình theo quy hoạch, thiết kế, bảo vệ cảnh quan, môi trường; phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc điểm văn hóa của địa phương; bảo đảm ổn định cuộc sống của Nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 19. Quy định về chấp thuận chủ trương đầu tư dự án điện lực nêu: “a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp, hạ áp cần đầu tư trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Đại biểu đề xuất Ban soạn thảo xem xét bổ sung, sửa đổi như sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp cần đầu tư hằng năm trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Lý do theo đại biểu để thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo là lưới điện hạ áp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Tại Khoản 2, Điều 18. Quy định chung về đầu tư xây dựng nêu: “2. Các trường hợp không phải đánh giá phù hợp với Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh: a) Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật này; b) Dự án lưới điện trung áp”. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ nội dung khoản 2 Điều 18, đại biểu cho rằng, theo quy định Khoản 2 Điều 10 Dự thảo quy định: Tổng khối lượng lưới điện trung áp là một nội dung quan trọng thuộc phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh trong quy hoạch tỉnh.
Các dự án quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo đã quy định các trường hợp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Mặt khác, việc đầu tư công trình lưới điện trung áp theo quy hoạch giúp cơ quan nhà nước tại địa phương phát huy hiệu quả công tác quản lý, giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư xây dựng công trình điện của các đơn vị đện lực và các chủ đầu tư, đảm bảo không vượt quá quy mô tổng khối lượng lưới điện trung áp trên địa bàn dẫn đến những biến động bất thường về nhu cầu nguồn cấp điện, phá vỡ kết cấu quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện cấp tỉnh.
Ngoài ra, theo quy định Khoản 1, Điều 4 Luật Xây dựng sửa đổi, bổ sung. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động đầu tư xây dựng của Luật Xây dựng: “Bảo đảm đầu tư xây dựng công trình theo quy hoạch, thiết kế, bảo vệ cảnh quan, môi trường; phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc điểm văn hóa của địa phương; bảo đảm ổn định cuộc sống của Nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 19. Quy định về chấp thuận chủ trương đầu tư dự án điện lực nêu: “a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp, hạ áp cần đầu tư trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Đại biểu đề xuất Ban soạn thảo xem xét bổ sung, sửa đổi như sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm phê duyệt danh mục dự án đầu tư lưới điện trung áp cần đầu tư hằng năm trên địa bàn trên cơ sở đề xuất của các đơn vị điện lực, nhà đầu tư bảo đảm không vượt khối lượng đã phê duyệt trong phương án phát triển nguồn, lưới điện trong quy hoạch tỉnh”.
Lý do theo đại biểu để thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 10 Dự thảo là lưới điện hạ áp không thuộc phạm vi cấp Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh.
Tại Khoản 2, Điều 58. Thẩm quyền cấp, thu hồi giấy phép hoạt động điện lực, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét sửa lại như sau: “2. Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp, thu hồi giấy phép hoạt động điện lực lĩnh vực phát điện, phân phối điện, bán buôn điện, bán lẻ điện trong phạm vi địa phương theo quy định của Chính phủ..."
"Lý do để phát huy vai trò cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương, chủ động, linh hoạt hơn trong công tác cấp phép hoạt động điện lực trên địa bàn, phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phân cấp phân quyền của Chính phủ" - đại biểu nói.
Mặt khác, khoản 5, Điều 92. Quản lý nhu cầu điện, đại biểu Đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung, sửa lại như sau: “Bộ Công Thương ban hành quy định về thực hiện chương trình quốc gia về quản lý nhu cầu điện, quy định về giờ cao điểm, giờ thấp điểm, giờ bình thường”.
Theo đại biểu, nhằm phát huy hiệu quả Chương trình Quản lý nhu cầu điện của quốc gia và các địa phương, cần thiết phải có quy định mang tính bắt buộc và chế tài xử phạt phù hợp theo từng giai đoạn, thời kỳ phát triển ngành năng lượng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.