Các quốc gia thành viên WTO tuyên bố rằng các RTA nên bổ sung, không thay thế cho hệ thống thương mại đa phương. RTA là hiệp ước giữa hai hoặc nhiều chính phủ xác định các quy tắc thương mại cho tất cả các bên ký kết cung cấp các điều kiện tốt hơn so với đối xử chung và tiếp cận thị trường so với tiêu chuẩn cơ bản của WTO (điều khoản MFN). RTA trong WTO có nghĩa là bất kỳ hiệp định thương mại có đi có lại nào giữa hai hoặc nhiều đối tác, không nhất thiết phải thuộc cùng một khu vực (chúng không nhất thiết phải là các hiệp định thương mại khu vực và do đó có thể bao gồm một số khu vực hoặc quốc gia từ các phần hoàn toàn khác nhau của thế giới).
Nguyên tắc quan trọng của hệ thống GATT/WTO là nguyên tắc không phân biệt đối xử. RTA có tính phân biệt đối xử nhưng tuy nhiên được coi là một ngoại lệ đối với quy tắc chính và được phép nếu đáp ứng một số điều kiện cụ thể. Nhìn chung, các RTA sẽ tạo thuận lợi cho thương mại giữa các bên nhưng theo định nghĩa không được nâng cao các rào cản thương mại đối với các bên thứ ba và phải bao gồm một phần quan trọng của thương mại (các quy tắc về hình thành và vận hành các FTA và Liên minh hải quan theo Điều XXIV của GATT, Điều khoản cho phép về RTA và các thỏa thuận toàn cầu của các quốc gia đang phát triển cũng như quy định của Điều V của GATS). Theo quy định của WTO, tất cả các RTA mới phải được thông báo cho WTO. Năm 2006, các quốc gia thành viên WTO đã đồng ý về một cơ chế tạm thời nhằm nâng cao tính minh bạch của các RTA và hiểu rõ tác động của chúng đối với hệ thống đa phương (toàn cầu).
Theo quy định, các thành viên thông báo cho WTO về các RTA, và các RTA này sẽ được thảo luận bởi các thành viên WTO rộng rãi hơn dựa trên bản trình bày thực tế do Ban Thư ký WTO chuẩn bị. Rõ ràng từ dữ liệu thương mại của WTO và thương mại nói chung, rằng các RTA đang ngày càng gia tăng về số lượng và thay đổi bản chất của chúng (từ các hiệp định thương mại ưu đãi song phương đơn giản (PTA) sang các khu vực thương mại tự do đa phương phức tạp hơn (FTA) / liên minh thuế quan (CU) và hơn thế nữa vượt ra ngoài phạm vi của các quy định về thuế quan và biên giới tiêu chuẩn đến phạm vi rộng lớn của các lĩnh vực chính sách như chính sách cạnh tranh, mua sắm của chính phủ, quyền sở hữu trí tuệ (IPR), chính sách cơ cấu, phát triển khu vực, v.v.). 50 hiệp định thương mại có hiệu lực vào năm 1990. Có hơn 280 hiệp định vào năm 2017. Tính đến ngày 20 tháng 9 năm 2020, 306 RTA đã có hiệu lực (theo trang web của WTO) tương ứng với 496 thông báo từ các thành viên WTO. Liên minh châu Âu hiện tại là một ví dụ về một khối hội nhập sâu bắt đầu như một hiệp định sơ khai, sau đó được mở rộng và sâu sắc hơn (mở rộng lên 27 (28) Quốc gia châu Âu từ 6 quốc gia ban đầu).
Nguồn gốc của RCEP
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được ký kết vào ngày 15 tháng 11 năm 2020 sau một thời gian dài đàm phán bắt đầu từ năm 2012. RCEP là một hiệp định khu vực, đa phương mở rộng và làm sâu sắc hơn thương mại tự do giữa các quốc gia thành viên của ASEAN và các đối tác thương mại hiện có là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như Australia và New Zealand. Bản thân ASEAN là một tổ chức kinh tế khu vực được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967 bởi năm quốc gia thành viên sáng lập và sau đó được mở rộng, hiện bao gồm mười quốc gia ở Đông Nam Á. Các quốc gia thành viên ASEAN là Indonesia, Philippines, Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Malaysia, Campuchia, Lào, Singapore và Brunei. Đông Timor và Papua New Guinea có tư cách quan sát viên.
Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) được ký kết vào ngày 28 tháng 1 năm 1992 tại Singapore, tạo ra một khối thương mại với FTA giữa các quốc gia thành viên để tăng lợi thế cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở sản xuất trong nền kinh tế toàn cầu thông qua việc loại bỏ thuế quan trong ASEAN và các rào cản phi thuế quan và để thu hút thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN. Các thành viên đã đưa ra kế hoạch Biểu thuế ưu đãi có hiệu lực chung, đã thiết lập một lịch trình theo từng giai đoạn vào năm 1992. Không giống như EU, AFTA không áp dụng một mức thuế quan chung từ bên ngoài đối với hàng hóa nhập khẩu (không phải là một liên minh thuế quan). Các nước ASEAN đã cố gắng mở rộng các thỏa thuận thương mại ưu đãi trong khu vực bằng cách hình thành các FTA khác với các nền kinh tế láng giềng. Cụ thể bao gồm: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Australia-New Zealand (AANZFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA) cũng như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Ấn Độ (AIFTA) mà có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2010 cũng như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN-Nhật Bản (AJCEP) có hiệu lực trước đó vào ngày 1 tháng 12 năm 2008. Những điều trên đã tạo ra một hệ thống hiệp định thương mại phức tạp đòi hỏi phải đơn giản hóa và đồng thời có thể làm sâu sắc thêm các mối quan hệ vì lợi ích của tất cả các bên liên quan. Cái gọi là ASEAN +3 là nỗ lực đầu tiên bao gồm ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiếp theo là Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) thậm chí còn lớn hơn, bao gồm cả Ấn Độ, Australia và New Zealand (ASEAN +6). Nhóm này đóng vai trò là tiền đề cho một Cộng đồng Đông Á khả thi (với những tham vọng tương tự như EEC / EU). Trong lúc này, các cuộc thảo luận và sau đó là các cuộc đàm phán đã dẫn đến việc ký kết Hiệp định RCEP bởi 15 trong số 16 quốc gia thuộc nhóm ASEAN +6. RCEP là hiệp định đa phương đầu tiên bao gồm Trung Quốc (đại lục) và thiết lập hiệp định thương mại tự do đầu tiên giữa Trung Quốc và Nhật Bản, cũng như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Mục tiêu của Hiệp định RCEP
Mục tiêu của Hiệp định RCEP là thiết lập quan hệ đối tác kinh tế hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và cùng có lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thương mại và đầu tư trong khu vực, góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn cầu. Hiệp định RCEP được tuyên bố là sẽ hoạt động cùng với và hỗ trợ một hệ thống thương mại đa phương mở, bao trùm và dựa trên các quy tắc trong WTO. Do đó, các mục tiêu của Hiệp định RCEP phù hợp với các quy định của WTO. Hiệp định RCEP nhằm mục đích bổ sung cho WTO và mở rộng sang các lĩnh vực không được đề cập hoặc vượt ra ngoài các quy định của WTO. RCEP chắc chắn tạo nên sự cải thiện đáng kể và làm sâu sắc hơn hội nhập trong khu vực so với hệ thống các FTA ASEAN +1 trước đây. RCEP nhằm tăng cường vị thế của các quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu nhưng cũng để xây dựng chuỗi giá trị khu vực mạnh mẽ hơn và sâu sắc hơn. Đồng thời, RCEP nhằm mục đích thúc đẩy cạnh tranh có trách nhiệm và mang tính xây dựng giữa các bên liên quan để thúc đẩy năng suất tổng thể, vốn là chìa khóa cho khả năng cạnh tranh dài hạn và tăng trưởng kinh tế.
Phạm vi của Hiệp định RCEP
Hiệp định RCEP bao gồm 20 Chương. Các chương cơ sở tập trung vào thương mại hàng hóa bao gồm quy tắc xuất xứ, thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp cũng như các biện pháp phòng vệ thương mại. Thỏa thuận này cũng bao gồm các thương mại dịch vụ bao gồm các điều khoản cụ thể về dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông và sự di chuyển tạm thời của thể nhân (liên quan đến thương mại dịch vụ). Bên cạnh đó, Hiệp định có các điều khoản về đầu tư, quyền SHTT, thương mại điện tử, cạnh tranh, DNVVN, hợp tác kinh tế và kỹ thuật, mua sắm chính phủ cũng như các lĩnh vực pháp lý và thể chế bao gồm giải quyết tranh chấp.
Về tiếp cận thị trường, Hiệp định RCEP đạt được tự do hóa trong thương mại hàng hóa và dịch vụ cũng như đầu tư. Phải lưu ý rằng nhóm RCEP đa dạng với các quốc gia ở trình độ phát triển khác nhau, mức độ phức tạp khác nhau của các công ty và quy mô khác nhau. Các bên ký kết có sự khác biệt đáng kể về nhu cầu kinh tế. Có tính đến điều này, Hiệp định được cho là có lợi cho các nước ở trình độ phát triển khác nhau. Do đó, nó cung cấp một mức độ linh hoạt nhất định và các điều khoản và đối xử đặc biệt đối với Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam, đồng thời bổ sung thêm tính linh hoạt cho các quốc gia kém phát triển nhất. Sự đa dạng về trình độ phát triển kinh tế của các bên ký kết, mức độ tinh vi khác nhau về công nghệ, cũng như các hệ thống chính trị và thiết lập thể chế khác nhau có thể tạo ra căng thẳng tiềm tàng trong chính khối.
Phê chuẩn và khả năng mở rộng RCEP
RCEP sẽ có hiệu lực sau khi ít nhất sáu quốc gia ASEAN và ba quốc gia ký kết ngoài ASEAN phê chuẩn và sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ khi được phê chuẩn. Quá trình phê chuẩn có thể kéo dài và mất vài tháng, tuy nhiên, dự kiến sẽ được hoàn thành vào năm 2021. Cần nhấn mạnh rằng RCEP được mở cho các nước khác gia nhập 18 tháng sau khi có hiệu lực. Ấn Độ, với tư cách là một quốc gia đàm phán ban đầu, có thể trở thành một thành viên bổ sung nhờ khả năng gia nhập nhanh chóng. Việc Ấn Độ gia nhập đồng nghĩa với việc đưa ra kế hoạch ban đầu của ASEAN +6. Ấn Độ quyết định không tham gia RCEP vào giai đoạn này do lo ngại về khả năng nhập khẩu quá mức, đặc biệt là từ Trung Quốc trong khuôn khổ của hiệp định hiện tại có thể gây nguy hiểm cho ngành nông nghiệp và công nghiệp trong nước. Do đó, Ấn Độ tham gia RCEP sẽ yêu cầu áp dụng các biện pháp tự vệ bổ sung và đàm phán lại các điều khoản của tất cả các bên liên quan.
Ý nghĩa kinh tế của RCEP
Các quốc gia của RCEP chiếm khoảng 29% (25,8 nghìn tỷ USD) tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu và xấp xỉ 29% (2,3 tỷ) dân số thế giới. Việc gia nhập của Ấn Độ sẽ làm tăng đáng kể các tỷ lệ này. 1/3 GDP thực tế toàn cầu vào năm 2020 và tỷ trọng có thể tăng 5% vào năm 2030 (theo Mô hình liên kết toàn cầu của IHS Markit). Với sự tiếp cận của Ấn Độ, dân số của RCEP sẽ lên tới 3,65 tỷ người, chiếm 47% dân số thế giới. Khi có hiệu lực, RCEP sẽ là FTA lớn nhất thế giới tính theo GDP - lớn hơn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Liên minh châu Âu (hiện đã suy yếu bởi Brexit của Anh vào năm 2020), cũng như NAFTA (nay là USMCA). Các nước RCEP chịu trách nhiệm về khoảng 25% thương mại hàng hóa và dịch vụ toàn cầu (12,7 nghìn tỷ USD).
So với phần còn lại của thế giới, hầu hết các quốc gia của RCEP đã đối phó tốt với đại dịch COVID-19 đang leo thang. Một số quốc gia RCEP đang phát triển mạnh mẽ. RCEP có thể thúc đẩy hơn nữa nền kinh tế của khu vực và nâng cao tầm quan trọng toàn cầu. Dữ liệu Dự báo GTA của IHS Markit cho thấy rõ ràng rằng các nước RCEP đã đóng một vai trò quan trọng trong thương mại toàn cầu. Các nước RCEP giao dịch thương mại với nhau mạnh mẽ nhưng cũng đóng một vai trò quan trọng trong xuất khẩu sang phần còn lại của thế giới. Cần nhấn mạnh rằng tầm quan trọng của RCEP trong xuất khẩu toàn cầu lớn hơn đáng kể về khối lượng so với giá trị thực. Do đó, RCEP đang và sẽ đóng vai trò ngày càng có ảnh hưởng trong mạng lưới giao thông toàn cầu, đặc biệt là vận tải biển.
Nhờ có RCEP, thương mại trong khu vực có khả năng tăng trưởng nhanh hơn thương mại với các khu vực khác trên thế giới - do đó, tầm quan trọng của chuỗi giá trị của khu vực đối với các nước RCEP sẽ tăng lên nhưng tầm quan trọng của RCEP trên toàn cầu cũng sẽ tăng lên. Ý nghĩa của các nước RCEP về giá trị hàng xuất khẩu vào năm 2020 thay đổi từ 27,1% đối với trường hợp của Trung Quốc đến 87,8% đối với trường hợp của Lào. Con số này bằng 44,0% đối với Nhật Bản, 50,0% đối với Hàn Quốc, 61,5% đối với New Zealand và 68,3% đối với Australia. Con số này ở Campuchia (42,0%), Việt Nam (44,9%) và Philippines (48,4%). Đối với Ấn Độ, tỷ trọng RCEP chỉ là 21,8% - như vậy thấp hơn so với Trung Quốc (đại lục). Xuất khẩu hàng hóa trong khu vực RCEP lên tới 2,05 nghìn tỷ USD vào năm 2020. Cũng cần lưu ý rằng tầm quan trọng của RCEP đặc biệt mạnh mẽ vì lần đầu tiên bao gồm Trung Quốc (đại lục) là một phần của hiệp định thương mại khu vực đa phương. Trung Quốc là một quốc gia toàn cầu đang phát triển nhanh chóng cả xuất khẩu (trong và ngoài RCEP).
Kết luận
Khi có hiệu lực, RCEP sẽ là hiệp định thương mại khu vực lớn nhất thế giới xét về GDP và dân số. Hiệp định mở rộng ra ngoài FTA điển hình trong thương mại hàng hóa, mở rộng sang thương mại dịch vụ và đầu tư. RCEP có khả năng mở rộng (sang các nước khác như Ấn Độ) và sâu hơn (tương tự như các quy trình được quan sát trong trường hợp EEC / EU hoặc MERCOSUR). Từ góc độ địa chính trị, đây là trường hợp đầu tiên mà Trung Quốc tham gia một hiệp định thương mại khu vực đa phương. RCEP sẽ có hiệu lực vào năm 2021 trừ khi có bất kỳ vấn đề đáng kể nào trong việc phê chuẩn. Bối cảnh chính sách thương mại của châu Á đang có một sự thay đổi lớn. Do đó, nhờ quy mô và phạm vi dự kiến , RCEP có thể tạo ra các tác động định lượng đáng kể trong khu vực và toàn cầu cả trong ngắn hạn và dài hạn (rất có thể xảy ra các tác động tĩnh đáng kể cũng như động). Nó có thể củng cố vị thế kinh tế của khu vực như là trọng tâm chính của hoạt động kinh tế thúc đẩy tăng trưởng của khu vực nhưng cũng có thể là yếu tố quan trọng để phục hồi từ COVID-19.
RCEP làm tăng khả năng thiết lập chuỗi giá trị khu vực lớn nhất thế giới với vai trò ngày càng tăng của hoạt động kinh tế nội khối. Sự không đồng nhất về văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị của khối sẽ là một thách thức đối với hoạt động của khối và tiến độ sẽ phụ thuộc vào sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích cho tất cả các quốc gia tham gia, phụ thuộc vào việc giải quyết những thách thức lớn, cụ thể là các lợi ích kinh tế và chính trị khác nhau của nhóm đa dạng này. Mặc dù vậy, nên nhìn RCEP từ một góc độ rộng hơn. Trong vài thập kỷ, bản thân hệ thống thương mại toàn cầu có khả năng phát triển thành một hệ thống gồm một số RIA lớn hoặc các hiệp định thương mại lớn trong khu vực (ví dụ: Châu Âu, Liên Mỹ và Châu Á) với một vai trò quan trọng trong hệ thống thương mại toàn cầu và những căng thẳng tiềm tàng giữa chúng.
Sự phát triển của RCEP có thể được coi là một bước quan trọng trong quá trình này. Điều này có thể đẩy nhanh quá trình xuất hiện cái gọi là FTA của châu Mỹ và gây thêm áp lực lên Liên minh châu Âu bị suy yếu đáng kể do Brexit. Thỏa thuận thương mại Anh-EU hậu Brexit hiện tại có thể chỉ là một giải pháp tạm thời và Vương quốc Anh có tính đến sự cân bằng giữa lợi ích và chi phí của Brexit và các điều khoản của thỏa thuận hiện tại với EU từ góc độ vài năm có thể xem xét lại bằng cách thương lượng lại các điều khoản của mình và có khả năng xem xét việc tái gia nhập EU trong vòng một thập kỷ tới. Nếu tính đến tất cả những điều trên, RCEP có thể trở thành một nhân tố thay đổi cuộc chơi tiềm năng cho nền kinh tế toàn cầu trong thế giới hậu COVID-19.