Người lao động mất sức được hưởng lương hưu như thế nào?
Tại khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 5 tuổi so với tuổi tương ứng theo lộ trình nêu trên tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người lao động có trên 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, nhưng chưa đủ tuổi nghỉ hưu cần đi giám định suy giảm khả năng lao động để hưởng chế độ hưu trí. Ảnh: X.C |
Còn theo quy định tại Khoản 2, Điều 169 Bộ Luật Lao động năm 2019, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ.
Theo đó, người lao động có trên 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, nhưng chưa đủ tuổi nghỉ hưu cần đi giám định mức suy giảm khả năng lao động. Người lao động sẽ chỉ đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí nếu suy giảm từ 81% trở lên hoặc từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Tại Điểm b, Khoản 1, Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 sửa đổi, bổ sung Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 về điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động như sau:
Người lao động nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại các Điểm a, b và c, Khoản 1, Điều 54 của Luật này nếu thuộc một trong các trường hợp, cụ thể sau:
Có tuổi thấp hơn tối đa 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Khoản 2, Điều 169 của Bộ luật Lao động khi bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến dưới 81%.
Có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Khoản 2, Điều 169 của Bộ luật Lao động khi bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Có đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ban hành và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
Về mức hưởng lương hưu, theo quy định tại Khoản 2, Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định về mức lương hưu hàng tháng như sau: Từ ngày 1/1/2018, mức lương hưu hàng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật này và tương ứng với số năm đóng bảo hiểm xã hội.