“Kế sách” ASEAN về ứng phó an ninh lương thực
Cuộc xung đột ở Ukraine đã làm dấy lên những lo ngại nghiêm trọng về an ninh lương thực toàn cầu. Chỉ số giá lương thực (FPI) của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc(FAO) đạt mức cao nhất mọi thời đại vào tháng 3, vượt qua mức giá trong giai đoạn 2007-2008 khi cuộc khủng hoảng giá lương thực toàn cầu xảy ra. Tác động của cuộc chiến đối với an ninh lương thực được Tổng giám đốc FAO nắm bắt rõ nhất, người đã cho rằng “các mối đe dọa quan trọng nhất (đối với an ninh lương thực) bắt nguồn từ xung đột và tác động nhân đạo liên quan, cùng với nhiều cuộc khủng hoảng chồng chéo”.
Các sự kiện leo thang và giá lương thực tăng cao đã khiến một số quốc gia phải dùng đến các chính sách bảo hộ, làm trầm trọng thêm các lo ngại về an ninh lương thực. Ví dụ, Ấn Độ đã áp đặt lệnh cấm xuất khẩu đối với lúa mì - một trong những mặt hàng chủ lực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc chiến đang diễn ra.
Ở Đông Nam Á, lệnh cấm xuất khẩu dầu cọ của Indonesia và lệnh cấm xuất khẩu thịt gà gần đây của Malaysia cho thấy các quốc gia khác đang có những hành động bảo hộ hơn nữa nhằm đáp ứng tính lưu động trong chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu. Những xu hướng như vậy đòi hỏi những nỗ lực tập thể khẩn cấp của các quốc gia trong khu vực để giải quyết một thảm họa tiềm tàng có thể dẫn đến các mối đe dọa lớn đối với an ninh con người. ASEAN có thể làm gì để đối phó với mối đe dọa chung về mất an ninh lương thực?
Vựa lúa, rổ bánh mì và chuỗi cung ứng thực phẩm toàn cầu
Giá ngũ cốc đạt đỉnh vào cuối tháng 3, cao hơn 70% so với cuối năm 2019, dựa trên Chỉ số giá ngũ cốc của FAO. Trong khi ASEAN là “vựa lúa” của thế giới, có hai trong ba nhà xuất khẩu gạo toàn cầu hàng đầu (Việt Nam và Thái Lan), thì Nga và Ukraine là “rổ bánh mì” của thế giới, đóng góp khoảng 24% lượng lúa mì xuất khẩu toàn cầu.
Gạo là mặt hàng được tiêu thụ rộng rãi nhất trên toàn ASEAN, chiếm một nửa tổng lượng calo, nhưng khu vực này vẫn phụ thuộc vào thị trường quốc tế để tiêu thụ lúa mì và ngô. Trong thập kỷ qua, nhập khẩu lúa mì của Indonesia, quốc gia đông dân nhất ASEAN, đã tăng hơn gấp đôi từ 4,8 triệu tấn (2010) lên gần 11 triệu tấn (2019). Việc sử dụng lúa mì lớn nhất của Indonesia là để sản xuất mì (70%), tiếp theo là bánh mì (20%) và bánh ngọt / bánh quy (10%).
Lúa mì và ngô cũng được dùng làm thức ăn cho gia súc. Tiêu thụ thịt trong khu vực đã tăng nhanh, do dân số ngày càng tăng và mức thu nhập bình quân đầu người tăng, đặc biệt là ở Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Cả Nga và Ukraine đều không dự kiến sẽ bình thường hóa xuất khẩu trong những tháng tới do chiến tranh. Phân tích của Al Jazeera cho thấy, sản xuất nông nghiệp ở các vùng lãnh thổ tranh chấp của Ukraine chiếm 23% sản lượng nông nghiệp đáng kể của nước này, có khả năng sẽ không được thu hoạch trong thời gian tới. Có rất nhiều thách thức về mặt hậu cần, vì gần 50% lúa mì của Ukraine hiện đang được cất giữ ở những khu vực đang diễn ra giao tranh tích cực.
Giá cả tăng và chủ nghĩa bảo hộ
Cộng với sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng là chủ nghĩa bảo hộ đang gia tăng, đặc biệt là trong xuất khẩu dầu cọ. Dầu thực vật (ví dụ: dầu hướng dương và dầu cọ) chiếm 10% khẩu phần ăn của người tiêu dùng trên toàn cầu, chủ yếu là dầu ăn trong các hộ gia đình.
Vào cuối tháng 4, giá dầu thực vật quốc tế đã tăng hơn gấp ba lần mức trước đại dịch vào cuối năm 2019. Điều này một phần đến từ việc giảm xuất khẩu của Nga và Ukraina trên 50% doanh số bán hạt hướng dương toàn cầu, được sử dụng để sản xuất dầu hướng dương. Vì dầu hướng dương là sản phẩm thay thế cho dầu cọ, nên sự gián đoạn do xung đột đối với xuất khẩu dầu hướng dương đã dẫn đến giá dầu thực vật cao hơn trên toàn cầu, và đến lượt nó làm tăng giá nội địa ở Indonesia.
Giá dầu cọ của Indonesia trên thực tế đã tăng lên tới 18.000 IR (1,23 USD) vào tháng 3. Giá trong nước cao hơn dẫn đến gánh nặng tài chính lớn hơn cho các nước trong và ngoài khu vực. Quyết định cấm xuất khẩu dầu cọ của Indonesia vào cuối tháng 4 được thúc đẩy bởi nhu cầu đảm bảo thực phẩm giá cả phải chăng trong nước; và chỉ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu khi giá dầu cọ trong nước trở lại mức bình thường là 14.000 IR (0,96 USD).
Việc gia hạn lệnh cấm làm giá thực phẩm quốc tế xấu đi. Do đó, những lo lắng trong nước về nhu cầu và nguồn cung các mặt hàng thực phẩm đã lấn át sự hợp tác trong khu vực. Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đang tiềm tàng trước cửa ASEAN. Dầu cọ chiếm 58% thương mại dầu thực vật toàn cầu, với Indonesia là nước xuất khẩu dầu cọ lớn nhất. Các chính sách bảo hộ của Indonesia có thể kích hoạt các hành động tương tự của các nước ASEAN khác bằng cách làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát giá lương thực do chiến tranh gây ra.
Một làn sóng bảo hộ mới có thể vượt ra ngoài dầu cọ. Ngày càng có nguy cơ cạnh tranh với các nước Trung Đông và Bắc Phi, những nước phụ thuộc nhiều vào Nga và Ukraine về lúa mì và ngô. Nếu những nước này hướng tới các nguồn cung cấp hàng hóa này của ASEAN, giá thực phẩm chắc chắn sẽ tăng hơn nữa. Trên hết, thách thức ngày nay mở rộng hơn nữa chuỗi cung ứng, bao gồm các đầu vào như phân bón; Nga là nước xuất khẩu phân bón hàng đầu thế giới, tuy nhiên, Bộ Thương mại và Công nghiệp của nước này đã khuyến nghị các thương nhân tạm thời hoãn xuất khẩu phân bón…
Nhìn chung, các lệnh cấm xuất khẩu đối với hàng hóa không chỉ là phản ứng khó chịu với lợi nhuận ngắn hạn, mà còn có thể kích hoạt các biện pháp thương mại trả đũa của các nước bị ảnh hưởng, tiếp tục làm gián đoạn chuỗi cung ứng thực phẩm.
Tăng cường hợp tác khu vực
Vào giữa tháng 4, người đứng đầu Tổ chức Thương mại thế giới và Chương trình Lương thực thế giới của Liên hợp quốc (cùng các tổ chức khác) đã ra một tuyên bố chung kêu gọi các nước “giữ cho thương mại cởi mở và tránh các biện pháp hạn chế như cấm xuất khẩu thực phẩm hoặc phân bón”.
Trong khi những tác động gián đoạn của cuộc xung đột ở Ukraine đối với nguồn cung cấp lương thực sẽ tiếp tục cho đến khi có một số giải pháp, các nỗ lực tập thể phải được tăng cường để ngăn chặn tác động của nó đối với an ninh lương thực toàn cầu trở nên tồi tệ hơn.
ASEAN cần nghiêm túc xem xét cách thức xây dựng dựa trên các cơ chế hiện có của mình trong việc chèo lái làn sóng tăng giá trên các mặt hàng. Một trong số đó là cơ chế Dự trữ gạo khẩn cấp ASEAN +3 (APTORR), được thành lập vào năm 2011 nhằm ngăn chặn lạm phát giá gạo tăng nhanh và không khuyến khích đầu cơ giá và chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch giữa các quốc gia thành viên.
Mặc dù ASEAN không có cơ chế song song đối với lúa mì, ngô, dầu thực vật hoặc phân bón, nhưng cần phải khám phá cách huy động các khuôn khổ khu vực của mình để cung cấp bổ sung nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng giá lương thực mới chớm nở.