Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 2)
Thực hiện Thanh Thảo - Thuỳ Dương
13/01/2025 18:23

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Winston Churchill đột nhiên thay đổi quan điểm của mình. Trước mùa hè năm 1911, ngài Bộ trưởng Nội vụ trẻ trung Churchill vẫn còn là một trong những người đứng đầu phe "các nhà kinh tế học", bao gồm những thành viên của Nội các Anh phản đối việc tăng chi phí quân sự nhằm đưa nước Anh vượt lên trong cuộc chạy đua hải quân giữa Anh và Đức. Cuộc chạy đua này là tác nhân gây nhiều hiềm khích nhất, khiến thái độ thù địch giữa hai quốc gia ngày càng trở nên sâu sắc. Tuy nhiên, Churchill lúc đó lại khẳng định chắc chắn rằng khả năng xảy ra chiến tranh với Đức không phải là không tránh khỏi, và nước Đức không phải lúc nào cũng hiếu chiến. Ông nhấn mạnh nên đầu tư ngân sách vào các chương trình xã hội trong nước hơn là vào việc trang bị thêm tàu chiến mới.

Nhưng ngày 1 tháng 7 năm 1911, Hoàng đế Đức Wilhelm II bất ngờ hạ lệnh cho Báo đen, một tàu hải quân chạy bằng hơi nước của Đức, tiến vào vùng cảng Agadir nằm trên bờ Đại Tây Dương của Marốc. Mục đích của Wilhelm II là kiểm tra sức ảnh hưởng của Pháp ở châu Phi và tìm một căn cứ đóng quân cho Đức. Mặc dù Báo đen chỉ là một chiếc tàu được trang bị súng, và Agadir là một thành phố cảng không mấy quan trọng, song sự xuất hiện của con tàu này tại đây đã gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế nghiêm trọng.

Việc Đức từng bước củng cố quân đội của mình vốn đã làm nảy sinh nhiều mối quan ngại cho các nước láng giềng châu Âu; nhưng tới lúc này, với khát khao đi tìm "chỗ đứng dưới bầu trời" cho mình, dường như Đức đang trực tiếp thách thức vị trí của Pháp và Anh trên trường quốc tế. Nguy cơ chiến tranh đã bóp nghẹt bầu không khí châu Âu trong nhiều tuần. Tuy nhiên, đến cuối tháng 7, tình hình căng thẳng đã dịu bớt – theo lời của Churchill thì "kẻ bắt nạt đang xuống thang". Nhưng sự kiện trên đã làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn của Churchill. Khác hẳn với đánh giá trước kia, giờ đây Churchill tin chắc rằng Đức đang tìm cách nắm bá quyền và sẽ sử dụng sức mạnh quân sự để giành được điều đó. Ông đi đến kết luận chiến tranh là bất khả kháng – vấn đề chỉ còn là thời gian. Churchill được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải quân ngay sau sự kiện Agadir. Ông tuyên bố sẽ làm tất cả để chuẩn bị về mặt quân sự cho nước Anh nhằm đối phó với ngày định mệnh đang đến, ngày mà chiến tranh tất yếu sẽ xảy ra.

Trách nhiệm của ông là phải bảo đảm cho Hải quân Hoàng gia Anh, biểu tượng đồng thời là đại diện cho sức mạnh đế quốc của Anh, sẵn sàng đối mặt với người Đức trên các vùng biển quốc tế. Một trong những vấn đề quan trọng và gây tranh cãi nhất mà Churchill phải đối mặt lúc đó dường như chỉ thiên về kỹ thuật, song trên thực tế nó lại có tác động sâu rộng trong thế kỷ XX: Hải quân Anh có nên chuyển từ nguồn năng lượng than truyền thống sang sử dụng dầu không?

Nhiều người cho rằng việc chuyển đổi như vậy là quá mạo hiểm, vì như thế có nghĩa là Hải quân sẽ mất đi chỗ dựa là nguồn than an toàn và ổn định của xứ Wales. Thay vào đó, họ sẽ phải trông chờ vào nguồn cung cấp dầu xa xôi và bất ổn của Ba Tư (tên cũ của Iran).

Churchill cho biết: Thật ra, việc chuyển hẳn nguồn năng lượng sử dụng trong hải quân sang dầu là "một hành động chuốc lấy vô số rắc rối". Nhưng những lợi ích chiến lược mà dầu mang lại – tốc độ nhanh hơn và sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn – đã trở nên quá rõ ràng khiến Churchill không thể chậm trễ. Ông quyết định nước Anh sẽ phải xây dựng "sức mạnh hải quân thống trị của mình dựa trên dầu mỏ" và lập tức bắt tay vào việc thực hiện mục tiêu trên với tất cả sức lực và lòng nhiệt tình mạnh mẽ. "Quyền lực chính là chiến lợi phẩm của cuộc phiêu lưu này" − Churchill khẳng định.

undefined
Winston Leonard Spencer-Churchill (1874-1965), người được biết tới như một trong những nhà lãnh đạo tài ba và quan trọng nhất trong lịch sử nước Anh.

Với quan điểm đó, Churchill, trước thềm Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã nắm được một chân lý cơ bản, không chỉ đúng trong cuộc chiến nảy lửa sắp tới mà còn đúng trong nhiều thập kỷ sau đó. Bởi vì trong suốt chặng đường của thế kỷ XX, dầu mỏ đồng nghĩa với quyền lực. Và hành trình kiếm tìm quyền lực đó cũng là chủ đề của cuốn sách này. Đầu những năm 1990 – gần 80 năm sau khi Churchill thực hiện quyết tâm chuyển sang sử dụng dầu mỏ, sau hai cuộc chiến tranh thế giới và một cuộc chiến tranh lạnh kéo dài, và trong một thời điểm được kỳ vọng là mở đầu cho một kỷ nguyên mới hòa bình hơn – một lần nữa dầu lại trở thành tâm điểm của mối mâu thuẫn toàn cầu.

Ngày 2/8/1990, Saddam Hussein, Tổng thống Iraq, đưa quân xâm lược Côoét. Mục đích của Saddam Hussein không chỉ là xâm chiếm một nhà nước có chủ quyền mà còn nhằm nắm giữ nguồn tài sản quý giá của nó. Chiến lợi phẩm thu về sẽ rất lớn. Nếu thành công, Iraq sẽ trở thành cường quốc dầu lửa lớn nhất thế giới và kiểm soát cả thế giới Arập và Vịnh Ba Tư, nơi tập trung phần lớn lượng dầu dự trữ của trái đất. Sức mạnh, tài sản mới và quyền kiểm soát dầu mỏ của Iraq sẽ khiến cả thế giới phải bợ đỡ những tham vọng của Saddam Hussein. Với nguồn tài nguyên của Côoét, Iraq sẽ có thể trở thành quốc gia có vũ khí hạt nhân đáng sợ và thậm chí còn có thể tiến dần tới vị trí một siêu cường. Kết quả sẽ là một sự thay đổi lớn trong cán cân quyền lực quốc tế. Nói ngắn gọn, một lần nữa, quyền lực chính là chiến lợi phẩm. Tuy nhiên, do những gì sẽ mất vào tay Iraq quá lớn, nên cuộc xâm lược Côoét không được thế giới chấp nhận như một việc đã rồi như Saddam Hussein từng hy vọng.

Không còn là thái độ bị động như khi Hitler tiến hành hoạt động quân sự hóa vùng Rhine phía tây nước Đức hay khi Mussolini tấn công Ethiopia. Thay vào đó, Liên hợp quốc đã ra lệnh cấm vận đối với Iraq, và nhiều quốc gia phương Tây và Arập đã tập hợp quân đội với quy mô lớn nhằm bảo vệ nước láng giềng Arập Xêút trước cuộc tấn công của Iraq cũng như chống lại những tham vọng của Saddam Hussein. Trong lịch sử thế giới chưa từng có tiền lệ nào cho sự hợp tác giữa Mỹ và Liên Xô và cũng chưa từng có tiền lệ nào cho việc triển khai quân nhanh chóng với quy mô lớn như vậy vào khu vực này. Vài năm trước đó, quan điểm cho rằng dầu mỏ không còn "quan trọng" gần như đã được coi là hợp thời.

Mùa xuân năm 1990, chỉ vài tháng trước cuộc xâm lược của Iraq, các quan chức cấp cao thuộc Bộ Chỉ huy Trung ương Mỹ, đầu não trong chiến dịch huy động quân đội của Mỹ sau này, vẫn còn được thuyết giáo đại ý rằng dầu mỏ đã mất đi tầm quan trọng chiến lược của nó. Thế nhưng, cuộc xâm lược Côoét đã phá tan quan điểm huyễn hoặc đó. Đầu năm 1991, khi các biện pháp hòa bình đều đã tỏ ra vô hiệu trước một Iraq ngoan cố, không chịu rút quân khỏi Côoét, một liên minh gồm 33 nước do Mỹ dẫn đầu đã tiêu diệt sức mạnh tấn công của Iraq sau năm tuần không chiến và 100 giờ lục chiến, đẩy Iraq ra khỏi lãnh thổ Côoét. Vào cuối thế kỷ XX, dầu mỏ vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong việc quyết định an ninh, sự thịnh vượng và bản chất của nền văn minh. Mặc dù lịch sử hiện đại của dầu bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX, nhưng chính thế kỷ XX mới là thế kỷ bị biến đổi hoàn toàn bởi sự xuất hiện của nó.

Có thể nói xung quanh câu chuyện về dầu có ba chủ đề lớn. Thứ nhất là sự trỗi dậy và phát triển của chủ nghĩa tư bản và nền thương mại hiện đại. Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất trong số các ngành công nghiệp vĩ đại từng xuất hiện trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX. Standard Oil, công ty kiểm soát toàn bộ ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ cuối thế kỷ XIX, là một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất của thế giới. Ngành kinh doanh này, trong thế kỷ XX, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu mạo hiểm, các nhà thúc đẩy kinh doanh hoạt ngôn, các ông chủ doanh nghiệp độc đoán, tới các bộ máy doanh nghiệp quan liêu lớn và các công ty nhà nước. Sự bành trướng của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi về công nghệ, và các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX.

Lịch sử dầu mỏ đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hợp đồng và nhiều quyết định quan trọng – do các cá nhân, công ty và các quốc gia thực hiện. Đôi khi, chúng ra đời dựa trên những suy tính kỹ càng, và đôi khi, chúng lại chỉ đơn giản là kết quả của một sự tình cờ. Không ngành kinh doanh nào có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác ý nghĩa của rủi ro và phần thưởng cũng như tầm quan trọng của cơ hội và số phận như ngành dầu mỏ. Khi nghĩ về thế kỷ XXI, chúng ta thấy rõ một điều rằng quyền lực của một con chip máy tính ngang ngửa với quyền lực của một thùng dầu. Tuy nhiên, ngành công nghiệp dầu mỏ vẫn duy trì sức ảnh hưởng to lớn của nó.

Trong số 20 công ty hàng đầu trong danh sách Fortune 500 (danh sách 500 công ty có mức doanh thu lớn nhất của Mỹ) có đến bảy công ty dầu mỏ. Chừng nào con người còn chưa tìm được một nguồn năng lượng thay thế khác thì dầu vẫn còn tác động sâu rộng tới nền kinh tế toàn cầu; những thay đổi lớn về giá dầu có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế hay ngược lại, dẫn đến lạm phát và suy thoái kinh tế. Ngày nay, dầu mỏ là loại hàng hóa duy nhất mà thông tin về những sự kiện và tranh cãi xung quanh nó không chỉ được đăng tải thường xuyên trên các chuyên trang về kinh doanh mà còn trên trang nhất các báo. Và, cũng như trước đây, dầu mỏ vẫn là một nguồn sinh lợi lớn đối với các cá nhân, các công ty và các quốc gia. Theo lời một nhà tài phiệt thì, "Dầu gần như đồng nghĩa với tiền."

Chủ đề thứ hai là dầu liên quan mật thiết với các chiến lược quốc gia, tình hình chính trị toàn cầu và quyền lực. Tầm quan trọng của dầu, với tư cách là một nhân tố tạo nên sức mạnh quốc gia đã được khẳng định trên các mặt trận của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi những chiếc máy chạy bằng động cơ đốt trong soán ngôi các phương tiện di chuyển dùng ngựa và than.

Dầu là tâm điểm của các diễn biến cũng như kết quả của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ở cả vùng Viễn Đông và châu Âu. Người Nhật tấn công Trân Châu Cảng với mục đích bảo vệ cánh quân bên sườn của mình khi họ đang tìm cách chiếm lĩnh nguồn dự trữ dầu ở khu vực các nước Đông Ấn. Một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng nhất của Hitler khi xâm lược Liên bang Xô Viết là nắm giữ các mỏ dầu vùng Caucasus (Cápcadơ). Nhưng cuối cùng, Mỹ mới là nước thống trị về dầu mỏ, và khi kết thúc cuộc chiến, các thùng chứa nhiên liệu của Đức và Nhật đều rỗng không. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cuộc chiến giành quyền kiểm soát dầu giữa các công ty đa quốc gia và các nước đang phát triển đóng vai trò quan trọng trong phong trào đòi quyền độc lập của các dân tộc thuộc địa và của chủ nghĩa dân tộc mới nổi.

Cuộc khủng hoảng Suez năm 1956 – sự kiện đánh dấu con đường cùng cho các đế quốc châu Âu già nua – chủ yếu xoay quanh vấn đề dầu mỏ. "Quyền lực của dầu" đã trở nên lớn mạnh hơn rất nhiều trong những năm 1970, đưa các quốc gia trước đây vốn chỉ đứng ngoài lề các diễn đàn chính trị quốc tế lên vị trí của các nước giàu có và có ảnh hưởng, đồng thời tạo nên một cuộc khủng hoảng lòng tin sâu sắc trong khối các nước công nghiệp vốn vẫn dựa vào dầu để phát triển kinh tế. Và dầu cũng chính là trung tâm của cuộc khủng hoảng đầu tiên thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh những năm 1990 – cuộc xâm lược Côoét của Iraq. Tuy vậy, đôi khi dầu lại là kho vàng trong tay kẻ ngốc.

Ước muốn mãnh liệt nhất của quốc vương Iran – sự giàu có nhờ dầu mỏ – đã trở thành hiện thực, nhưng cũng chính điều đó lại làm ông kiệt quệ. Dầu đã gây dựng nên nền kinh tế của Mexico, nhưng rồi lại khiến nó suy yếu dần. Liên bang Xô Viết − quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ hai thế giới – đã phung phí số doanh thu khổng lồ từ dầu trong những năm 1970 và 1980 cho một chiến dịch củng cố quân sự và một loạt các cuộc phiêu lưu quốc tế vô dụng, thậm chí nguy hại. Còn Mỹ, quốc gia từng giữ vị trí nhà sản xuất dầu lớn nhất và hiện vẫn là quốc gia tiêu thụ dầu nhiều nhất thế giới, phải nhập khẩu tới một nửa nguồn dầu cung ứng cho nhu cầu trong nước. Thực trạng này gây phương hại tới vị thế chiến lược tổng thể của Mỹ và làm gia tăng đáng kể gánh nặng thâm hụt mậu dịch – đây là một tình thế nguy hiểm đối với một cường quốc lớn.

Sau Chiến tranh Lạnh, một trật tự thế giới mới đang bắt đầu hình thành. Cạnh tranh kinh tế, những cuộc chiến giữa các quốc gia trong từng khu vực và những cuộc đấu tranh giữa các dân tộc, dưới sự trợ giúp và khuyến khích của việc phổ biến các loại vũ khí hiện đại, có thể sẽ thay thế hệ tư tưởng với vai trò là tâm điểm của mâu thuẫn quốc tế và quốc gia. Nhưng dù trật tự thế giới mới này có phát triển theo hình thái nào đi nữa, thì dầu vẫn sẽ là một nhân tố chiến lược đóng vai trò thiết yếu trong các chiến lược quốc gia cũng như trên chính trường quốc tế. Chủ đề thứ ba trong lịch sử dầu mỏ lý giải vì sao xã hội của chúng ta lại trở thành một "Xã hội hydrocarbon" và chúng ta, theo ngôn ngữ của các nhà nhân loại học, lại trở thành "Con người hydrocarbon". Trong mấy thập kỷ đầu phát triển, việc kinh doanh dầu đã mang đến cho thế giới đang trên đà công nghiệp hóa một sản phẩm mang tên "dầu lửa". Đây được coi là "ánh sáng mới", giúp đẩy lùi bóng tối và kéo dài ngày làm việc.

Cuối thế kỷ XIX, chủ yếu nhờ buôn bán dầu lửa mà John D. Rockefeller trở thành người giàu nhất nước Mỹ. Thời đó, xăng gần như chỉ là một sản phẩm phụ vô dụng. Khó khăn lắm mới tìm được một người mua xăng với giá cao nhất là 2 xu/gallon; còn khi không bán được, buổi tối người ta lại lén lút đổ xăng xuống sông. Vào lúc sự xuất hiện của bóng đèn điện tưởng chừng như sắp đẩy nền công nghiệp dầu mỏ đi vào dĩ vãng thì một kỷ nguyên mới lại mở ra với sự phát triển của động cơ đốt trong dùng xăng. Ngành công nghiệp dầu mỏ đã có một thị trường mới. Và cùng với đó, một nền văn minh mới ra đời.

Trong thế kỷ XX, dầu, cùng với khí đốt tự nhiên, đã hạ bệ ngôi vị nguồn năng lượng của thế giới công nghiệp của ông vua than. Dầu cũng trở thành nền tảng của phong trào ngoại ô hóa rộng lớn thời kỳ hậu chiến, làm biến đổi cả phong cảnh đương thời và lối sống hiện đại của chúng ta. Ngày nay, chúng ta trở nên quá phụ thuộc vào dầu, và dầu cũng gắn bó quá mật thiết với sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, đến nỗi hiếm khi chúng ta dừng lại để cảm nhận hết tầm quan trọng bao trùm của nó.

Chính dầu đã biến mọi việc thành có thể – nơi chúng ta ở, cách chúng ta sinh sống, phương thức chúng ta đi làm hàng ngày hay đi du lịch, và thậm chí là nơi chúng ta có những mối quan hệ lãng mạn với người khác giới. Dầu là mạch sống của các cộng đồng khu vực ngoại ô. Dầu mỏ và khí đốt tự nhiên là các thành phần không thể thiếu trong thuốc trừ sâu − loại thuốc đang chi phối nền nông nghiệp thế giới. Dầu đã khiến việc vận chuyển lương thực tới các thành phố lớn trên thế giới, nơi hoàn toàn không có khả năng tự cung tự cấp, trở nên dễ dàng. Dầu còn được dùng để sản xuất ra nhựa và các chất hóa học – cơ sở gây dựng nên nền văn minh đương đại, một nền văn minh có nguy cơ sụp đổ nếu các giếng dầu thế giới đột nhiên cạn kiệt.

Trong phần lớn thế kỷ này, việc con người ngày càng phụ thuộc vào dầu mỏ đã được gần như cả thế giới ngợi ca là một điều tốt lành, một biểu tượng cho sự tiến bộ của nhân loại. Nhưng thời kỳ hoàng kim đó của dầu mỏ không còn nữa. Cùng với sự phát triển của phong trào môi trường, các nguyên tắc cơ bản của xã hội công nghiệp đang đứng trước những thách thức to lớn; trong đó ngành công nghiệp dầu mỏ, trên mọi khía cạnh, bị săm soi, chỉ trích và phản đối nhiều nhất.

Cả thế giới đang tăng cường những nỗ lực hạn chế hoạt động đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch (bao gồm dầu, than và khí đốt tự nhiên) do những hậu quả mà việc làm này gây ra: ô nhiễm không khí, mưa axit, suy thoái tầng ozone và nguy cơ thay đổi khí hậu. Dầu mỏ, mặc dù là một thành tố quan trọng của thế giới như chúng ta đều biết, hiện đang bị buộc tội là tác nhân chính khiến tình trạng suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng hơn.

Và ngành công nghiệp dầu mỏ, vốn vẫn tự hào về những tiến bộ công nghệ cũng như về những đóng góp của nó cho việc hình thành thế giới hiện đại, bỗng ngơ ngác nhận thấy mình đang ở hàng ghế bị đơn với tội danh là mối đe dọa của các thế hệ hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, Con người hydrocarbon chưa hề có ý định sẽ từ bỏ chiếc ôtô, hay ngôi nhà ngoại ô của mình, hay những gì họ coi không chỉ là tiện nghi mà còn là thiết yếu đối với lối sống của họ. Các quốc gia đang phát triển cũng không đưa ra dấu hiệu nào chứng tỏ họ sẵn sàng hy sinh các lợi ích của một nền kinh tế phát triển nhờ dầu mỏ để đổi lại những lợi ích về môi trường.

Hơn nữa, trước khi đưa ra bất kỳ ý tưởng nào về việc giảm tải lượng tiêu thụ dầu của thế giới, người ta cũng phải tính đến mức gia tăng dân số chóng mặt trong tương lai. Vào những năm 1990, dân số thế giới được dự đoán sẽ tăng thêm 1 tỷ người – tức là so với đầu thập kỷ, cuối thập kỷ dân số sẽ tăng thêm 20% – trong đó, đa phần người dân trên thế giới sẽ vẫn tiếp tục đòi hỏi "quyền" được tiêu thụ dầu. Các chương trình nghị sự quốc tế về môi trường của thế giới công nghiệp sẽ được đem ra so sánh với quy mô phát triển dân số. Cùng lúc, trên diễn đàn quốc tế hiện đã nổi lên một trong những mâu thuẫn lớn và khó giải quyết của thập kỷ 1990 giữa một bên là sự ủng hộ việc tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường, mạnh mẽ và ngày càng cao, và một bên là quyết tâm phát triển kinh tế, các lợi ích của Xã hội hydrocarbon và những lo lắng về vấn đề an ninh năng lượng.

Trên đây là ba chủ đề mà cuốn sách này đề cập. Bối cảnh là sân khấu toàn cầu. Đây là một biên niên sử về những sự kiện vĩ đại đã và đang ảnh hưởng tới cuộc sống của tất cả chúng ta. Cuốn sách vừa nói về các thế lực kinh tế và công nghệ hùng mạnh và vô cảm, vừa nói về những chiến lược cũng như sự sắc sảo của các doanh nhân và chính khách.

Các nhân vật được cuốn sách nhắc tới là các nhà tài phiệt và doanh nhân của ngành công nghiệp dầu – trong đó đương nhiên phải kể đến ông vua dầu mỏ Rockefeller, ngoài ra còn có Henri Deterding, Calouste Gulbenkian, J. Paul Getty, Armand Hammer, T. Boone Pickens, và nhiều người khác. Đóng vai trò không kém phần quan trọng là những nhân vật như Churchill, Adolf Hitler, Joseph Stalin, Ibn Saud, Mohammed Mossadegh, Dwight Eisenhower, Anthony Eden, Henry Kissinger, George Bush và Saddam Hussein. Thế kỷ XX thật sự xứng đáng với danh hiệu "thế kỷ dầu".

Bên cạnh tất cả những mâu thuẫn và sự phức tạp của nó, vẫn luôn có một "sợi chỉ" xuyên suốt câu chuyện về dầu, một cảm giác nóng hổi hơi thở thời đại đối với cả những sự kiện đã xảy ra từ rất lâu, đồng thời, có cả những tiếng vọng mạnh mẽ của quá khứ trong các sự kiện mới xuất hiện. Bên cạnh đó, đây còn là một câu chuyện về những cá nhân riêng lẻ, các thế lực kinh tế hùng mạnh, sự thay đổi trong công nghệ, những cuộc đấu tranh chính trị, mối mâu thuẫn quốc tế và, thật ra, là về những thay đổi vĩ đại.

Tác giả cuốn sách hy vọng thông qua việc nghiên cứu các hệ quả của sự phụ thuộc của thế giới vào dầu trên bình diện kinh tế, xã hội, chính trị và chiến lược, cuốn sách sẽ góp phần làm sáng tỏ quá khứ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn hiện tại và dự đoán tương lai.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Nghe thêm

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 5)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 5)

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Thị trường của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ dịch chuyển nhanh chóng. Và gần như cùng lúc, bản đồ khai thác của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ cũng sẽ biến đổi chóng mặt, và các đối thủ Mỹ mới sẽ xuất hiện, thách thức vị trí thống lĩnh của Standard.

Chương 4: Thế kỷ mới

"Ngôi nhà cổ" là từ mà một số công ty dầu mỏ độc lập dùng để gọi Standard Oil. Công ty này đã vươn cao như một tòa nhà khổng lồ và uy nghi, đổ bóng về mọi phía, thống trị mọi ngóc ngách của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ. Trong khi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài đang thách thức "Ngôi nhà cổ" ở các thị trường bên ngoài nước Mỹ, thì thị trường trong nước lại có phần cam chịu chấp nhận. Dường như việc cuối cùng Standard Oil sẽ sở hữu và kiểm soát tất cả mọi thứ là điều không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, những gì diễn ra trong thập niên 1890 và thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX sẽ đe dọa vị trí vượt trội của "Ngôi nhà cổ". Thị trường của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ dịch chuyển nhanh chóng. Và gần như cùng lúc, bản đồ khai thác của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ cũng sẽ biến đổi chóng mặt, và các đối thủ Mỹ mới sẽ xuất hiện, thách thức vị trí thống lĩnh của Standard. Không chỉ thế giới, mà chỉ riêng nước Mỹ, cũng sẽ trở nên quá rộng lớn, thậm chí là đối với Standard Oil.

Nhà máy lọc dầu của Standard Oil tại Richmond- California

Những thị trường bị mất và giành được Cuối thế kỷ XIX, dầu hỏa, khí đốt và nến là những nhiên liệu đáp ứng nhu cầu nguồn ánh sáng nhân tạo của con người. Các nhà máy địa phương sản xuất khí đốt từ than hoặc dầu hoặc trực tiếp khai thác và vận chuyển khí đốt tự nhiên. Tất cả ba loại chất đốt này – dầu hỏa, khí đốt và nến – cùng có những vấn đề nghiêm trọng như nhau. Chúng tạo ra muội, bụi và hơi nóng. Chúng ngốn ôxy và luôn tiềm ẩn nguy cơ gây hỏa hoạn. Vì lý do này, nhiều tòa nhà, bao gồm cả tòa nhà Gore Hall, thư viện của Đại học Harvard, không được chiếu sáng bằng những nhiên liệu này. Sự thống trị của dầu hỏa, khí đốt và nến cũng không kéo dài.

Năm 1877, Thomas Alva Edison – phát minh ra bóng đèn điện. Chỉ trong hai năm, ông đã phát triển được loại bóng đèn nóng sáng chịu nhiệt. Đối với Edison, phát minh không chỉ là niềm đam mê, mà còn là công việc làm ăn. Ông từng viết: "Chúng tôi sẽ liên tục tạo ra những thứ có giá trị thương mại – đó là mục tiêu của phòng thí nghiệm này. Chúng tôi không thể giống như vị giáo sư Đức già nua, người chỉ cần có bánh mì đen và bia để dành cả cuộc đời nghiên cứu những cái lông tơ trên thân con ong".

Ngay lập tức, Edison chuyên tâm vào việc thương mại hóa phát minh bóng đèn điện của ông, và trong quá trình này, ông đã phát minh ra máy phát điện. Thậm chí, Edison còn rất thận trọng trong việc định giá điện sao cho giá của nó có khả năng cạnh tranh cao. Ông đã xây dựng một dự án thuyết minh sản phẩm của mình ở khu Hạ Manhattan, một khu vực bao gồm cả Phố Wall. Năm 1882, từ văn phòng của ông chủ nhà băng J. P. Morgan mà ông có quan hệ làm ăn, Edison bật công tắc, khởi động máy phát điện và mở cánh cửa không chỉ của một ngành công nghiệp mới mà còn của một phát minh sẽ làm biến đổi cả thế giới. Điện đem lại thứ ánh sáng siêu việt, điện không cần người sử dụng phải chăm sóc, và người ta không thể cưỡng lại sức hấp dẫn của điện.

Đến năm 1885, có 250.000 bóng đèn điện được sử dụng và năm 1902, con số này đã là 18 triệu. "Ánh sáng mới" giờ đây là ánh sáng từ điện chứ không phải từ dầu hỏa. Các công ty cung cấp khí đốt tự nhiên phải chuyển sang cung cấp khí đốt cho các mục đích sưởi ấm và nấu bếp. Trong khi đó, thị trường dầu hỏa ở Mỹ, thị trường chủ lực của ngành công nghiệp dầu lửa, ngừng tăng trưởng và ngày càng thu hẹp lại tại khu vực nông thôn. Công nghệ mới này cũng nhanh chóng được chuyển sang châu Âu.

Năm 1882, một hệ thống chiếu sáng bằng điện đã được lắp đặt tại nhà ga Holborn Viaduct ở London. Điện và các công nghệ liên quan đã thâm nhập Berlin nhanh chóng và sâu rộng đến nỗi người ta gọi thành phố này là Elektropolis (Đô thị điện). Sự phát triển của điện ở London diễn ra bừa bãi và vô tổ chức hơn. Đầu thế kỷ XX, London có 65 nhà máy cung cấp điện khác nhau. "Người London có thể dùng bánh mì trong bữa sáng được nướng bằng điện của một nhà máy này, dùng điện chiếu sáng trong văn phòng của họ bằng điện của một nhà máy khác, đến gặp các cộng sự trong những tòa nhà văn phòng gần đó, nơi sử dụng một loại điện khác, và đi bộ trên phố để về nhà dưới những ngọn đèn lại sử dụng một loại điện khác nữa". Đối với những người được tiếp cận điện, năng lượng này là một ân huệ lớn. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của điện là một mối đe dọa sâu sắc với ngành công nghiệp dầu lửa, và đặc biệt là "Ngôi nhà cổ".

undefined
Standard Oil là một công ty sản xuất, vận chuyển, tinh chế và tiếp thị dầu mỏ của Mỹ.

Tương lai mà Standard Oil – với khối đầu tư khổng lồ vào khai thác dầu, lọc dầu, xây dựng đường ống, các kho chứa và hệ thống phân phối – sẽ phải đối mặt nếu mất đi thị trường chính của, thị trường chất đốt là gì? Tuy nhiên, ngay khi một thị trường đang chuẩn bị mất đi thì một thị trường mới lại được mở ra – thị trường nhiên liệu cho loại "xe kéo không dùng ngựa," nói cách khác, chính là ôtô. Một vài loại xe như vậy chạy bằng động cơ đốt trong, loại động cơ sử dụng nhiên liệu là xăng để tạo ra lực đẩy cho xe chạy. Là loại phương tiện giao thông gây nhiều tiếng ồn, có khí thải độc hại và không đáng tin cậy cho lắm, nhưng xe gắn động cơ đốt trong đã giành được sự tín nhiệm ở châu Âu sau cuộc đua Paris-Bordeaux-Paris năm 1895. Trong cuộc đua này, có xe tham dự đạt tới vận tốc đáng kể là 15 dặm/giờ.

Năm sau đó, cuộc đua ôtô đầu tiên diễn ra tại vịnh Narragansett, bang Rhode Island. Đây là một cuộc đua chậm chạp và buồn tẻ đến nỗi khán giả phải kêu lên: "Kiếm một con ngựa đi!" Mặc dù vậy, ở Mỹ cũng như ở châu Âu, xe không do ngựa kéo nhanh chóng thu hút sự chú ý của các nhà phát minh có đầu óc kinh doanh. Một người trong số này là kỹ sư trưởng của Công ty chiếu sáng Edison ở Detroit. Ông đã bỏ việc để tập trung vào việc thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một loại xe chạy bằng xăng mang tên ông – xe Ford. Chủ nhân đầu tiên của chiếc xe đầu tiên do Henry Ford sản xuất đã bán lại chiếc xe này cho một người khác là A. W. Hall và ông này nói với Ford mình đã bị cuốn vào "cơn sốt xe không ngựa". Hall xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong trái tim của những người sử dụng xe hơi trong tương lai, với tư cách là chủ nhân đầu tiên được ghi nhận của một chiếc xe hơi đã qua sử dụng.

Đến năm 1905, xe hơi chạy bằng xăng đã đánh bại các đối thủ chạy bằng hơi nước và điện về mức độ tự động, đồng thời thiết lập được vị trí bá chủ toàn diện của mình. Tuy nhiên, người ta vẫn băn khoăn về độ khó sử dụng và mức độ tin cậy của loại xe này. Nhưng một lần rồi mãi mãi, những câu hỏi này đã bị đẩy lui bởi trận động đất xảy ra ở San Francisco năm 1906. Khi đó, 200 chiếc xe hơi tư nhân đã được huy động cho việc giải cứu và tiếp tế hay bằng 15.000 gallon xăng do Standard Oil tài trợ.

Quyền giám đốc cơ quan cứu hỏa của San Francisco, người đã chỉ huy ba chiếc xe làm việc suốt ngày đêm, phát biểu: "Trước khi trận động đất này xảy ra, tôi đã nghi ngờ ôtô. Nhưng bây giờ, tôi thật tâm đánh giá cao loại xe này". Cũng trong năm đó, một nhà báo hàng đầu đã viết, ôtô "không còn là một chủ đề cho những người thích đùa nữa, và hiếm khi chúng ta còn nghe thấy câu nói nhạo báng: "Kiếm một con ngựa đi!". Thậm chí còn hơn thế, xe hơi đã trở thành một biểu tượng của địa vị. Một nhà văn viết: "Ôtô là thần tượng của thời hiện đại. Người đàn ông sở hữu một chiếc xe hơi không chỉ có được những niềm vui du ngoạn, mà còn cả sự ngưỡng mộ của đám đông đi bộ, và… là một vị thánh đối với phụ nữ".

Sự phát triển của ngành công nghiệp xe hơi là một hiện tượng đáng kinh ngạc. Lượng ôtô đăng ký tại Mỹ tăng từ 8.000 xe năm 1900 lên 902.000 xe năm 1912. Trong một thập kỷ, từ chỗ là một sản phẩm mới, ôtô đã trở thành một vật quen thuộc, làm biến đổi bộ mặt và tập tục của xã hội hiện đại. Và xe hơi hoàn toàn phụ thuộc vào dầu. Từ trước tới giờ, xăng chỉ là một sản phẩm không quan trọng của quá trình lọc hóa dầu, với giá trị khiêm tốn là làm một số loại dung môi và nhiên liệu đốt lò. Còn đối với các mục đích sử dụng khác, xăng không có giá trị gì.

Năm 1892, một người làm trong ngành công nghiệp dầu lửa đã tự chúc mừng khi bán được xăng với giá khoảng 2 xu/gallon. Nhưng điều này đã thay đổi với sự xuất hiện của ôtô, loại phương tiện giao thông đã biến xăng thành thứ nhiên liệu ngày càng có giá trị. Ngoài thị trường xăng, một thị trường lớn thứ hai cho dầu lửa cũng đang phát triển cùng với việc dầu nhiên liệu ngày càng được sử dụng nhiều cho nồi hơi trong các nhà máy, tàu hỏa và tàu thủy. Tuy nhiên, khi câu hỏi gây lo lắng về vấn đề thị trường trong tương lai cho dầu lửa đang được nhanh chóng giải quyết thì một câu hỏi bi quan mới lại nổi lên: Lấy đâu ra nguồn cung để cung cấp đủ cho những thị trường đang bùng nổ này? Sản lượng dầu của Pennsylvania đã giảm xuống. Mỏ dầu Lima ở bang Ohio và Indiana không thể tương xứng với thị trường. Liệu có thể tìm thấy các mỏ dầu mới không? Và tìm kiếm ở đâu? Và ai sẽ là người kiểm soát những mỏ dầu đó?

Những cuộc vượt ngục

Địa vị của Standard Oil trong ngành công nghiệp dầu lửa đã bắt đầu bị lung lay trước khi thế kỷ XIX kết thúc. Cuối cùng, một số công ty sản xuất và cung cấp dầu lửa đã có thể thoát khỏi gọng kìm của các hệ thống đầu mối, đường ống và nhà máy lọc dầu của Standard để giành lấy sự độc lập thật sự ở mức độ nhất định.

Vào đầu thập niên 1890, một nhóm công ty dầu mỏ độc lập ở Pennsylvania đã hợp tác với các công ty lọc dầu để thành lập Công ty dầu mỏ của các nhà sản xuất và lọc dầu. Nhận thấy sẽ không thể có được cơ hội thắng "Ngôi nhà cổ" thật sự nếu không tìm ra cách đưa dầu ra khỏi Vùng đất dầu và tới khu vực bờ biển với mức giá cạnh tranh, công ty mới này đã tiến hành xây dựng đường ống riêng. Những công nhân xây dựng đường ống này phải đương đầu với những cuộc tấn công vũ trang của các công nhân đường sắt, cũng như hơi nước, nước nóng và than nóng đổ xuống người họ từ các đầu máy xe lửa. Những trở ngại này có thể chính là "bàn tay đeo găng" của Standard Oil. Nhưng cuối cùng đường ống này cũng đã được xây dựng.

Năm 1895, những công ty độc lập khác nhau này đã thành lập Công ty Pure Oil để tổ chức phát triển thị trường ở nước ngoài và tại khu vực Bờ Đông. Pure Oil được xây dựng như một tờ-rớt, với các ủy viên quản trị được chỉ định là "các nhà quán quân của tự do". Theo thói quen, Standard Oil kiên trì tìm cách mua lại và giành quyền kiểm soát các bộ phận cấu thành của Pure Oil. Tuy nhiên, mặc dù đã có một số cuộc điện thoại bí mật, Standard cũng không thể đạt được mục đích trên. Và chỉ trong vòng một vài năm, Pure Oil đã phát triển thành một công ty hợp nhất hoàn toàn có những thị trường xuất khẩu lớn. Mặc dù Pure Oil vẫn là một công ty nhỏ so với gã khổng lồ Standard, song các nhà sản xuất và lọc hóa dầu độc lập cuối cùng đã biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Họ đã thành công trong việc thách thức Standard Oil và cách ly họ khỏi tổ chức này.

Còn Standard Oil, không còn lựa chọn nào khác, buộc phải tự thích nghi với thực tế không mấy dễ chịu về cuộc cạnh tranh căng thẳng và dài lâu ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, các hoạt động của công ty Pure Oil hoàn toàn diễn ra tại Pennsylvania. Theo lẽ thường, dầu lửa là một hiện tượng tại miền Đông nước Mỹ và mọi người luôn thấy bi quan mỗi khi bàn về những nguồn cung mới. Tuy nhiên, những mỏ dầu mới vẫn được phát hiện về phía Đông, ngang qua đại lục Bắc Mỹ, tại bang Colorado và Kansas. Có một vùng đất thậm chí còn xa hơn về phía Tây, ngang qua dãy núi Rockies, bang California. Nhựa asphalt rò rỉ và nhựa tarpit là những dấu hiệu cho thấy nơi này có khả năng có dầu.

Vào thập niên 1860, hoạt động xúc tiến khai thác dầu lửa diễn ra mạnh mẽ ở Bắc Los Angeles. Benjamin Silliman Con, người đã tán thành dự án của George Bissell và "Đại tá" Drake vào những năm 1850, đồng thời cũng là một người luôn kiếm việc làm thêm, đã nhận làm tư vấn cho nhiều dự án xúc tiến khai thác dầu lửa ở California. Vị giáo sư danh tiếng của Đại học Yale này không kiềm chế sự hăng hái của mình. Giá trị của một nông trại "là sự giàu có gần như hoang đường trên mỏ dầu tốt nhất", ông viết. Còn giá trị của một nông trại khác "là khối lượng dầu có thể khai thác ở đây gần như không có giới hạn".

Tuy nhiên, nghiên cứu của Silliman không chính xác tuyệt đối. Mặc dù ông đã tới một vài nơi trong số những khu vực mà ông đưa ra đánh giá song những khu vực khác ông mới chỉ nhìn thấy từ xe ngựa khi đi từ Los Angeles tới. Thậm chí, có khu vực ông còn chưa đặt chân tới bao giờ. Lý do khiến các cuộc thí nghiệm của ông cho thấy khả năng có dầu cao tới mức như vậy là vì mẫu dầu ông phân tích đã được trộn thêm loại dầu tinh lọc hạng nhất của Pennsylvania, được lấy từ kệ hàng của một bách hóa tổng hợp ở Nam California.

Cuối thập niên 1860, sự bùng nổ hoạt động khai thác dầu ở Los Angeles đã lắng xuống, khiến triển vọng dầu lửa của California mờ đi. Danh tiếng của Giáo sư Silliman thậm chí còn bị ảnh hưởng thậm tệ hơn. Cảm thấy quá mất mặt và thất thế, người từ trước đến nay vẫn là một trong những nhân vật ưu tú nhất của nền khoa học Mỹ buộc phải từ chức giáo sư hóa học tại Đại học Yale. Tuy nhiên, chỉ khoảng một thập kỷ sau, Silliman gần như được minh oan. Một sản lượng dầu khiêm tốn đã được khai thác tại những khu vực mà ông đánh giá – ở hạt Ventura và phía bắc thung lũng San Fernado miền Bắc Los Angeles, một thị trấn khi đó chỉ có 8.000 người. Nhiều người từng lo ngại rằng dầu lửa giá rẻ từ nước ngoài sẽ tràn vào Mỹ, với sự trợ giúp của chính sách xóa bỏ thuế nhập khẩu dầu, và như thế, sẽ chèn ép ngành công nghiệp dầu lửa địa phương của California. Tuy nhiên, nhờ các biện pháp can thiệp chính trị tài tình, thuế nhập khẩu dầu đã không bị hạ xuống mà thậm chí còn tăng gấp hai lần.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 4)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 4)

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Cánh cửa vào thương mại thế giới đã mở ra và dầu của châu Mỹ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trên toàn thế giới.

Chương 3: Thương mại cạnh tranh

Phần còn lại của thế giới đang chờ đợi thứ "ánh sáng mới" từ Mỹ, song việc tổ chức đưa chuyến tàu chở dầu đầu tiên tới châu Âu không phải là điều dễ dàng. Các thủy thủ rất lo sợ khả năng cháy nổ xảy ra trong quá trình vận chuyển dầu lửa. Tuy nhiên, cuối cùng, năm 1861, một công ty vận tải biển tại Philadelphia đã tập trung được một đội thủy thủ bằng cách cho những thủy thủ khỏe mạnh mới vào nghề uống say mèm rồi lừa họ lên tàu. Chuyến tàu đó đã cập bến London an toàn.

Cánh cửa vào thương mại thế giới đã mở ra và dầu của châu Mỹ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trên toàn thế giới. Người dân ở khắp mọi nơi bắt đầu được hưởng những lợi ích mà dầu đem lại. Như vậy, rõ ràng là ngay từ đầu, việc buôn bán dầu đã mang tính quốc tế và đã trở thành một ngành thương mại quốc tế. Ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ không đạt được mức độ phát triển và tầm quan trọng như vậy nếu sản phẩm không được xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài.

Tại châu Âu, nhu cầu về các sản phẩm dầu của Mỹ tăng lên nhanh chóng do quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa cũng như sự thiếu hụt nguồn cung của các sản phẩm chất béo và dầu vốn đã từng làm châu lục này khốn đốn suốt thời gian dài. Sự phát triển của các thị trường đa dạng càng được đẩy mạnh thông qua các lãnh sự của Mỹ tại châu Âu. Những quan chức ngoại giao này rất hăng hái trong việc thúc đẩy sự phát triển của mặt hàng được gọi là "phát minh kiểu Mỹ" này. Nhiều người trong số họ thậm chí còn mua dầu bằng tiền túi rồi bán lại cho những khách hàng tiềm năng.

Hãy xem nhu cầu của thị trường thế giới có ý nghĩa như thế nào? Thứ nhiên liệu thắp sáng đã trở nên phổ biến trên khắp thế giới này không phải do một quốc gia mà chính xác hơn là một bang duy nhất cung cấp, bang Pennsylvania. Sẽ không bao giờ lại có bất kỳ một vùng đất đơn lẻ nào có thể độc quyền cung cấp dầu thô như vậy nữa. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, xuất khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng đối với ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ nói riêng và nền kinh tế quốc dân của nước này nói chung. Trong những năm 1870 và 1880, Mỹ xuất khẩu tới hơn một nửa sản lượng dầu sản xuất trong nước. Dầu lửa khi đó là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ tư, và đứng hàng đầu trong số các sản phẩm được sản xuất ra. Vào thời điểm đó, châu Âu là thị trường xuất khẩu dầu lớn nhất của Mỹ.

Tính đến cuối thập kỷ 1870, ngành dầu lửa của Mỹ không chỉ do một bang thống trị, mà còn do một công ty duy nhất lũng đoạn. Đó là Standard Oil, 90% dầu lửa xuất khẩu qua tay công ty này. Standard Oil rất hài lòng với một hệ thống mà trong đó trách nhiệm của nó chấm dứt tại một cảng biển bất kỳ nào của Mỹ. Công ty này rất tự tin vào vị trí độc tôn của mình và sẵn sàng thống trị cả thế giới từ trụ sở của công ty tại Mỹ. Trên thực tế, John D. Rockefeller đã có thể áp đặt cái gọi là "kế hoạch của chúng ta" lên toàn bộ thế giới. Vào thời gian đó, Standard Oil tỏ ra vô cùng tự hào về sản phẩm của mình. Theo Giám đốc phụ trách thị trường nước ngoài của công ty này, dầu đã "len lỏi đến mọi ngóc ngách của mọi quốc gia, kể cả phát triển và không phát triển, mạnh mẽ hơn bất kỳ thứ hàng hóa nào trong lịch sử kinh doanh".

undefined
Standard Oil – Tập đoàn dầu lửa hùng mạnh thời kỳ đầu của kỷ nguyên dầu mỏ.

Tất nhiên, một mối đe dọa đã xuất hiện, đó là khả năng diễn ra cạnh tranh quốc tế. Mặc dù vậy, những người đứng đầu Standard Oil đã không tính đến khả năng này. Cạnh tranh quốc tế chỉ có thể xảy ra nếu có những nguồn dầu thô nhiều hơn và rẻ hơn. Báo cáo địa chất của bang Pennsylvania năm 1874 tự hào khẳng định lý do tại sao dầu của bang này có thể thống trị thị trường thế giới. Bản báo cáo này đã bỏ qua câu hỏi về việc thăm dò ở các quốc gia khác có thể tìm thấy dầu hay không mà chỉ cho rằng đó là một vấn đề "có thể sẽ làm ta quan tâm" mà thôi. Khi đó, các tác giả của bản báo cáo đã quá tin vào vai trò thống trị của Mỹ nên thấy không cần thiết phải tìm lời giải đáp cho câu hỏi trên. Và họ đã mắc sai lầm.

"Số tiền gỗ óc chó"

Trong số những thị trường hứa hẹn nhất cho thứ "ánh sáng mới" này có đế quốc Nga bao la đang bắt đầu tiến trình công nghiệp hóa và ánh sáng nhân tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước này. Thủ đô St. Petersburg ở một nơi xa xôi về phía bắc đến nỗi, vào mùa đông, thành phố này chỉ có được sáu giờ đồng hồ có ánh sáng ban ngày. Năm 1862, dầu hỏa của Mỹ đã tới được thị trường Nga. Tại St. Petersburg, chất đốt này nhanh chóng được chấp nhận và đèn dầu nhanh chóng thay thế thứ mỡ động vật mà bấy lâu nay người dân ở đây gần như phụ thuộc hoàn toàn.

Tháng 12 năm 1863, viên lãnh sự Mỹ tại St. Petersburg vui mừng thông báo rằng "chắc chắn nhu cầu đối với dầu của Mỹ sẽ tăng mạnh trong những năm sắp tới". Tuy nhiên, nhà ngoại giao này không tính đến những phát triển trong tương lai tại một vùng đất xa xôi, khó đặt chân tới của đế quốc này. Đó chính là nhân tố sẽ không chỉ giành lại thị trường Nga khỏi các công ty xuất khẩu dầu của Mỹ, mà còn báo hiệu sự thất bại của các kế hoạch toàn cầu của Rockefeller. Trong nhiều thế kỷ, hiện tượng dầu thấm ra ngoài đã được ghi nhận ở bán đảo Aspheron khô cằn, một phần của dãy núi Caucasus kéo dài về phía biển Caspi nằm trong nội địa.

Vào thế kỷ XIII, Marco Polo cho biết đã nghe người ta nói tới một dòng suối ở Baku có dầu chảy ra. Mặc dù loại dầu này "không thể dùng trong thức ăn" nhưng "dùng để đốt thì tốt" và chữa bệnh ghẻ lở ở lạc đà rất hiệu quả. Baku là vùng đất của "những cột lửa vĩnh hằng" được những người bái hỏa giáo tôn thờ. Nói nôm na hơn, những cột lửa này chính là những cột khí đốt dễ bốc cháy, đồng hành với những lớp dầu lắng đọng, thoát ra từ các vết nứt ở những phiến đá vôi xốp. Baku là một phần của một lãnh địa độc lập được sáp nhập vào đế quốc Nga vào những năm đầu của thế kỷ XIX.

Đến khi đó, ngành công nghiệp dầu lửa sơ khai đã bắt đầu hình thành tại đây và, tới năm 1829, đã có 82 hố dầu đào bằng tay. Tuy nhiên, sản lượng thu được rất nhỏ bé. Sự phát triển của hoạt động sản xuất dầu ở vùng này bị cản trở nghiêm trọng bởi cả sự lạc hậu và xa xôi của khu vực, cũng như của chính quyền Sa hoàng thối nát, độc đoán và bất tài vốn coi ngành công nghiệp nhỏ bé này thuộc độc quyền của nhà nước. Cuối cùng, vào những năm đầu thập niên 1870, Chính phủ Nga đã bãi bỏ hệ thống độc quyền và mở cửa ngành công nghiệp dầu lửa cho các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh. Kết quả là sự bùng nổ của hoạt động sản xuất dầu. Thời đại của những hố dầu đào bằng tay chấm dứt.

Vào các năm 1871, 1872 đã có những giếng dầu đầu tiên được khoan và tới năm 1873, đã có hơn 20 nhà máy lọc dầu nhỏ đi vào hoạt động. Không lâu sau đó, một nhà hóa học có tên Robert Nobel đã đặt chân tới Baku. Ông là con trai lớn của Immanuel Nobel, nhà phát minh lớn người Thụy Điển nhập cư vào Nga năm 1937 và lực lượng quân sự tại Nga đã vui mừng áp dụng phát minh mìn dưới nước của ông. Immanuel đã xây dựng một công ty công nghiệp khá lớn và công ty này chỉ bị phá sản khi Chính phủ Nga chuyển từ mua hàng trong nước sang mua hàng từ nước ngoài. Con trai của Immanuel là Ludwig đã xây dựng một công ty vũ khí lớn trên đống gạch tàn của công ty cũ. Ngoài ra, Ludwig còn phát triển "bánh xe Nobel", loại bánh xe duy nhất phù hợp được với những con đường tồi tệ ở nước Nga.

Một người con trai khác của Immanuel là Alfred có năng khiếu cả về hóa học và tài chính. Nghe theo gợi ý của một thầy giáo ở St. Petersburg về nitroglycerine, Alfred đã tạo ra một đế chế thuốc nổ rộng lớn khắp toàn cầu nằm dưới sự điều hành của ông từ Paris. Tuy nhiên, Robert, người con trai cả của Immanuel Nobel, lại không có được may mắn lớn như các em. Ông thất bại trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau và rốt cục phải quay về St. Petersburg làm việc cho Ludwig.

Ludwig giành được một hợp đồng lớn sản xuất súng trường cho Chính phủ Nga và cần gỗ để làm báng súng. Trong quá trình tìm nguồn cung cấp loại vật liệu này, ông cử Robert đi xuống phía nam, tới dãy núi Caucasus để kiếm gỗ óc chó của Nga. Tháng 3 năm 1873, Robert tới Baku. Mặc dù đã trở thành một địa chỉ giao thương lớn giữa Đông và Tây, nơi người ta giao tiếp với nhau bằng nhiều thứ tiếng, Baku vẫn là một phần của châu Á với những ngôi tháp và nhà thờ Hồi giáo cổ kính của các ông hoàng Ba Tư và dân cư là người Tatar, Ba Tư và Armenia. Tuy nhiên, hoạt động khai thác dầu đã bắt đầu đem lại sự thay đổi lớn cho nơi này. Ngay khi tới Baku, Robert đã bị cuốn vào cơn sốt dầu ở đây. Không thèm hỏi ý kiến em trai – xét cho cùng, ông cũng là anh cả và do đó, ông có những đặc quyền nhất định – Robert dùng ngay số tiền 25.000 rúp mà Ludwig giao cho ông để mua gỗ –"số tiền gỗ óc chó" – để mua một nhà máy lọc dầu nhỏ. Nhà Nobel đã nhảy vào ngành công nghiệp dầu lửa như thế.

Sự phát triển của dầu lửa Nga

Robert nhanh chóng bắt tay vào việc hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả của nhà máy lọc dầu mà ông mua bằng tiền của Ludwig. Với nguồn vốn rót thêm từ người em trai, ông nhanh chóng phát triển nhà máy này thành nhà máy lọc dầu mạnh nhất ở Baku. Tháng 10 năm 1876, chuyến hàng dầu hỏa đầu tiên của nhà Nobel đã tới St. Petersburg. Cũng năm đó, Ludwig tới Baku để được tận mắt chứng kiến những gì đang diễn ra ở đây. Lão luyện trong quan hệ làm ăn với chính quyền phong kiến, Ludwig giành được sự ủng hộ của Đại công tước là em trai Sa hoàng kiêm lãnh chúa vùng Causasus.

Tuy nhiên, Ludwig Nobel cũng là một nhà lãnh đạo công nghiệp sừng sỏ, có khả năng vạch ra một kế hoạch với quy mô của Rockefeller. Ông bắt đầu phân tích từng giai đoạn phát triển của ngành công nghiệp dầu lửa; ông học mọi thứ có thể học về kinh nghiệm trong lĩnh vực này của nước Mỹ; ông tăng cường đầu tư vào khoa học-công nghệ, đổi mới và lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả và lợi nhuận; và ông cũng dành cho toàn bộ hoạt động kinh doanh dầu lửa này sự lãnh đạo và mối quan tâm của chính cá nhân ông. Chỉ trong vài năm, ngành công nghiệp dầu lửa của Nga đã đuổi kịp và thậm chí còn vượt lên dẫn trước ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ, ít nhất là trong một thời gian. Và người đàn ông Thuỵ Điển có tên Ludwig Nobel này trở thành "Ông vua dầu lửa của Baku".

Vận tải đường dài là một vấn đề có tính chất quyết định. Từ Baku, những thùng dầu phải vượt qua một tuyến đường dài và khó đi. Ban đầu, những con thuyền chở dầu sẽ đi 600 dặm về phía bắc, từ biển Caspi tới Astrakhan; sau đó, dầu được chuyển sang các xà lan để tiếp tục một hành trình dài ngược dòng sông Volga. Cuối cùng, dầu được đưa tới một tuyến đường sắt nào đó để tiếp tục vận chuyển tới những nơi khác. Chi phí cho việc vận chuyển dầu rất lớn và, ngay cả những thùng chứa dầu cũng rất đắt đỏ. Gỗ ở địa phương không đủ cho việc sản xuất thùng và người ta phải mua gỗ ở một khu vực xa xôi nào đó của đế quốc Nga, hoặc nhập khẩu gỗ từ Mỹ. Một cách nữa là mua lại những thùng chứa dầu đã qua sử dụng của Mỹ ở Tây Âu. Ludwig đã hình thành trong đầu một giải pháp cho vấn đề thùng chứa và giải pháp này của ông có ảnh hưởng trên phạm vi rộng lớn. Đó là vận chuyển dầu "với khối lượng lớn" – tức là, vận chuyển dầu trong những bể chứa được xây dựng sẵn trên tàu.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)

Thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang thông tin điện tử của Tập đoàn dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

“Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” được coi là Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard. Nội dung cuốn sách thuật lại chi tiết toàn cảnh lịch sử của ngành dầu mỏ, mô tả các cuộc đấu tranh giành tiền bạc và quyền lực xung quanh ngành công nghiệp dầu mỏ, làm rung chuyển kinh tế thế giới, làm thay đổi vận mệnh của nhiều quốc gia, dân tộc, gây ra nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu. Xin lần lượt đăng tải nội dung tác phẩm nổi tiếng này để phục vụ bạn đọc.

undefined
“Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” được coi là Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard

Trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng phụ thuộc vào năng lượng như hiện nay thì dầu mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế toàn cầu và hầu như mọi ngành công nghiệp đều chịu tác động rất lớn bởi những biến động của nguồn tài nguyên quý giá này. Chỉ trong vài tháng qua, giá dầu đã tăng đột ngột, ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Tháng 7 năm 2008, giá dầu lần đầu tiên đạt kỷ lục trong lịch sử với mức giá 150 đô-la/thùng.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cũng vừa công bố báo cáo mới nhất về thị trường dầu mỏ thế giới. Nhu cầu tăng mạnh ở các nước đang phát triển và những căng thẳng về nguồn cung hiện nay dự báo "một bức tranh thị trường dầu mỏ u ám trong trung hạn". Dầu mỏ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh chính trị thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng có nhiều biến động khiến giá dầu không ngừng leo thang.
Thực tế đang chứng minh rằng thế giới sẽ dần dần được vận hành bởi động lực là dầu mỏ cho đến khi nhân loại tìm ra được một loại nhiên liệu khác đủ sức thay thế hoàn toàn, mà con đường đó dường như còn xa... Nằm trong sự ảnh hưởng chung đó, Việt Nam cũng không tránh khỏi những biến động và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trong ngành dầu mỏ. Giá xăng và nhiên liệu tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia và đời sống của người dân.
Nhận thấy tầm quan trọng của dầu mỏ trong đời sống kinh tế, chính trị quốc tế, PetroVietnam đã hợp tác với Alpha Books, Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC) và NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách mang tên Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực – Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX. Như cuốn sách cho thấy, đằng sau rất nhiều cuộc chiến tranh, xung đột, va chạm, liên kết, liên minh, có một nguyên nhân luôn thường trực, đó là dầu mỏ. Dầu mỏ không còn giới hạn là một thứ nhiên liệu lỏng đơn thuần mà đã trở thành một thứ vũ khí mang màu sắc chính trị, kinh tế, dĩ nhiên là cả tôn giáo, văn hóa…
Đây là một cuốn sách trên 1.200 trang khắc họa sâu sắc toàn cảnh lịch sử phát triển và vai trò của ngành dầu và các sản phẩm lọc hoá dầu. Tác giả của cuốn sách, Daniel Yergin là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng là đồng tác giả cuốn Energy Future (Năng lượng tương lai). Một cuốn sách được giải của ông là Shattered Peace (Nền hòa bình bị phá bỏ) đã trở thành tác phẩm lịch sử kinh điển về những nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh. Cuốn The Commanding Heights (Những đỉnh cao chỉ huy) của ông đã được xuất bản tại Việt Nam và được độc giả đánh giá cao.
Chúng tôi tin rằng, tác phẩm đầy giá trị này của Daniel Yergin – Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực sẽ giúp độc giả Việt Nam, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng hiểu biết sâu sắc hơn về các cuộc giao tranh quyền lực nóng bỏng, sự giàu có của các cường quốc, nguyên nhân cội rễ của các cuộc xung đột Trung Đông, vai trò của các quốc gia Vùng Vịnh trong nền kinh tế toàn cầu và những biến động chính trị trong khu vực ảnh hưởng đến toàn thế giới...
Bạn đang cầm trong tay một cuốn sách rất đặc biệt; có thể coi đây là cuốn biên niên sử hết sức lý thú của hành tinh chúng ta trong hơn một thế kỷ nay, xoay quanh một tài nguyên có tầm quan trọng sống còn đối với hầu hết các quốc gia muốn đặt chân lên con đường công nghiệp hóa và đi tới phồn vinh, đó là DẦU MỎ. Tác giả cuốn sách, DANIEL YERGIN, người đã được trao giải thưởng Pulitzer, là một chuyên gia về các vấn đề toàn cầu và dầu mỏ. Ông là Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, một cơ quan tư vấn hàng đầu về năng lượng quốc tế. Ông cũng từng là giảng viên trường Đại học Harvard và trường John F. Kennedy Harvard.
Một tác phẩm lớn khác của ông đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam là cuốn Những đỉnh cao chỉ huy, được độc giả đánh giá rất cao Ngay từ đầu bạn đọc chắc chắn sẽ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn của cuốn sách. Dù bạn là người đã từng hoặc đang làm việc trong lĩnh vực dầu khí đi nữa thì khi bắt đầu đọc cuốn sách này, bạn vẫn có thể cảm thấy hiểu biết của mình về tầm vóc và ảnh hưởng của các hoạt động dầu khí đối với xã hội loài người còn quá khiêm tốn; rằng hóa ra gần cả thế kỷ nay dầu mỏ và sau này là khí thiên nhiên (còn gọi là khí đốt) đã đóng một vai quan trọng đến mức khó hình dung nổi đối với sự phát triển của lịch sử thế giới; rằng số phận của không ít những quốc gia, dân tộc, tập đoàn kinh tế, nguyên thủ quốc gia và chính khách… lẽ ra đã khác đi nếu dầu mỏ không được dùng làm vũ khí trong các cuộc đối đầu giữa các quốc gia và các thế lực chính trị, xã hội đã từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.
Nhưng lịch sử đã sang trang và thế giới đang như bạn thấy chứ không phải như thế khác. Nhưng điều hết sức lý thú là tác giả cuốn sách sẽ đưa bạn trở về với những sự kiện lịch sử có thể bạn đã biết, tuy nhiên lại cung cấp cho bạn những thông tin, phân tích, đánh giá khá độc đáo và đầy sức thuyết phục để minh chứng cho vai trò quyết định của dầu mỏ đến chiều hướng phát triển của những sự kiện đó.
Trong phần mở đầu cuốn sách, tác giả viết: "Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất trong số các ngành công nghiệp vĩ đại từng xuất hiện trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX… Ngành kinh doanh này, trong thế kỷ XX, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu mạo hiểm, các nhà thúc đẩy kinh doanh hoạt ngôn, các ông chủ doanh nghiệp độc đoán, tới các bộ máy doanh nghiệp quan liêu lớn và các công ty nhà nước. Sự bành trướng của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi về công nghệ, và các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX.
Lịch sử dầu mỏ đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hợp đồng và nhiều quyết định quan trọng – do các cá nhân, công ty và các quốc gia thực hiện. Đôi khi, chúng ra đời dựa trên những suy tính kỹ càng, và đôi khi, chúng lại chỉ đơn giản là kết quả của một sự tình cờ. Không ngành kinh doanh nào có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác ý nghĩa của rủi ro và phần thưởng cũng như tầm quan trọng của cơ hội và số phận như ngành dầu mỏ". Có thể coi đó là sự mô tả khá chính xác vóc dáng và bản chất của ngành công nghiệp dầu khí. Từ địa vị chưa mấy được chú ý vào đầu thế kỷ XX, dầu mỏ, với tư cách một nhân tố tạo nên sức mạnh quốc gia, đã khẳng định tầm quan trọng của nó ngay trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi những chiếc máy bay chạy bằng động cơ đốt trong soán ngôi của các phương tiện di chuyển dùng ngựa và than.
Đến giữa thế kỷ XX, rất ít người còn hoài nghi về vai trò quan trọng không thể thiếu của dầu mỏ trong cán cân năng lượng toàn cầu. Nửa cuối của thế kỷ XX, thế giới chứng kiến sự bứt phá và chiếm lĩnh vị trí thống soái của dầu mỏ và khí thiên nhiên với nền công nghiệp và dịch vụ xã hội, bỏ xa nhiên liệu hóa thạch truyền thống là than đá. Những năm đầu của thế kỷ XXI này đang đánh dấu sự vươn lên ngoạn mục của dầu mỏ và khí đốt khi các quốc gia giàu hai nguồn tài nguyên này dường như đang có khả năng khuynh đảo ít nhất là một phần của thế giới văn minh bằng cách đóng hay mở các giếng dầu hoặc các đường ống dẫn khí. Mấy năm nay, Iran vẫn bướng bỉnh với các nghị quyết của Liên hợp quốc và các cường quốc Âu - Mỹ về vấn đề hạt nhân chắc cũng dựa vào thế có trữ lượng dầu gần 20 tỷ tấn, chỉ đứng sau Arập Xêút.
Venezuela, một trong những nước có trữ lượng dầu khổng lồ, cũng tỏ ra hết sức ngang ngạnh trong quan hệ với Mỹ. Quan hệ Nga - Ukraine, Nga - Belarus lúc ấm (thậm chí đã quyết định thành lập Liên bang với nhau), lúc lạnh cũng vì khí đốt. Rồi Trung Quốc, quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế cùng với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới (trong khi nguồn tài nguyên trong nước có hạn), đã có những hoạt động hết sức mạnh mẽ để đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế với hầu hết các nước châu Phi có lẽ cũng nhằm vào nguồn tài nguyên dầu khí từ lục địa này.
Có thể nói, sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt và than đá. Ngay cả nguồn lương thực của chúng ta, dù là sản phẩm của ngành nông nghiệp, cũng phụ thuộc không ít vào các nguồn tài nguyên này với tư cách là nguyên liệu (ví dụ để sản xuất phân đạm từ dầu, khí và than đá) hoặc nhiên liệu cho máy móc.
Theo thống kê của các tổ chức nghiên cứu năng lượng thế giới, trữ lượng dầu được xác minh của toàn thế giới (số liệu năm 2005) nằm trong khoảng từ 2.050 cho đến 2.390 tỷ thùng, tương đương từ 270 đến 323 tỷ tấn, và đến bây giờ chúng ta đã sử dụng khoảng 45 cho đến 70% trữ lượng đó. Các nước ở vùng Trung Đông chiếm khoảng một nửa trữ lượng dầu xác minh của thế giới, trong đó riêng Saudi Arabia chiếm một phần tư.
Nếu tính cả vùng Bắc Phi và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ ở Trung Á thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa. Trong khi đó, trữ lượng dầu ở các nước G7 khá khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá ít (trừ Canađa có trữ lượng dầu trong cát lớn, nhưng có lẽ còn lâu mới có thể khai thác hiệu quả được do giá thành khai thác cao). Cho nên, điều dễ hiểu là vùng Trung Đông, Trung Á, Bắc Phi và cả Mỹ Latinh, hiện có nhiều điểm nhạy cảm nhất, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị của thế giới.
Không ai có thể dự đoán được nguy cơ mất ổn định ở những vùng này bao giờ mới có hồi kết chừng nào dầu mỏ vẫn còn là đối tượng, cũng là công cụ hết sức nhạy cảm và hữu hiệu trong các tranh chấp quốc tế dù dưới bất kỳ màu áo gì: sắc tộc, tôn giáo hay hệ tư tưởng, chế độ chính trị. Nhưng liệu thế giới còn sử dụng dầu được bao nhiêu năm nữa? Liệu có phải thời gian để sử dụng lượng dầu dự trữ đã được xác minh có thể còn ngắn hơn 40 năm? Vậy các kịch bản có thể xảy ra với bức tranh dầu khí cũng như thế giới trong thế kỷ này sẽ như thế nào? Liệu nhân loại còn có khả năng tìm thấy dầu (và khí) nữa không? Giải pháp nào sẽ được tiến hành để bảo đảm nguồn năng lượng cho tương lai nếu dầu cạn kiệt? Đó là những câu hỏi luôn luôn làm đau đầu nhà lãnh đạo các quốc gia và gánh nặng đó lại được đặt lên vai các nhà khoa học, các nhà quản lý. Câu hỏi đầu tiên cần trả lời là dưới lòng đất còn bao nhiêu dầu nữa?
Theo đánh giá của các nhà khoa học thì trong tương lai còn có thể tìm thêm được khoảng từ 275 đến 1.469 tỷ thùng dầu nữa. Nếu lấy con số lạc quan nhất thì lượng dầu sẽ được phát hiện và xác minh sẽ bằng với trữ lượng xác minh mà chúng ta đang có trong tay. Nghĩa là kỷ nguyên dầu mỏ còn có thể kéo dài thêm 40 – 50 năm hoặc dài hơn, ngắn hơn, tùy mức sử dụng hàng năm tăng hay giảm. Tuy nhiên, triển vọng này lạc quan đến mức độ nào là điều không dễ dự báo.
Song các nhà khoa học và các nhà hoạch định chính sách trên thế giới vẫn tỏ ra tin tưởng, bởi hiện tại đang có một số khả năng chứng tỏ việc tăng trữ lượng dầu toàn cầu là điều có thể xảy ra. Thứ nhất, đó là việc tăng hệ số thu hồi dầu ở các mỏ đang và sẽ đưa vào khai thác. Điều này đạt được là nhờ các công ty khai thác dầu đưa vào sử dụng những công nghệ và kỹ thuật hiện đại, tiết kiệm chi phí cho việc thăm dò và khai thác dầu, làm giảm giá thành. Thứ hai, trữ lượng dầu được công bố của các quốc gia chưa phải là trữ lượng thật sự người ta có. Thứ ba, trữ lượng được xem xét hiện nay chưa bao gồm các dạng hóa thạch có chứa dầu như cát dầu (tar sands) và bitum (bitumen).
Một tiềm năng chưa được tính đến nữa là trữ lượng có thể có ở Nam Cực đang bị cấm thăm dò, khai thác vì mục đích bảo vệ môi trường. Nói chung, các nguồn dầu này, nếu khai thác được, sẽ cho sản lượng không nhỏ trong cán cân năng lượng hóa thạch. Thứ tư, các vùng nước sâu, vùng gần Bắc Cực đang là thử thách cũng là cơ hội lớn đối với các công ty dầu khí thế giới.
Trong những năm gần đây, nhiều mỏ dầu nước sâu ở vịnh Mexico, ở Angola và ở Đông Thái Bình Dương đã được phát hiện và đưa vào khai thác. Ở Việt Nam, bên cạnh việc tiếp tục tìm kiếm dầu khí ở những vùng gần bờ, các công việc chuẩn bị cho việc ra xa bờ, nhất là vùng thềm lục địa phía nam, đang được xúc tiến tích cực.
Theo đánh giá của các cơ quan năng lượng quốc tế, Việt Nam đang ở trong giai đoạn tăng trưởng sản lượng dầu, trong khi Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan... đã đi qua giai đoạn đỉnh cao của sản lượng. Triển vọng lạc quan của ngành dầu khí sẽ còn được nâng cao hơn nữa nhờ một hướng đi đang được mở ra để gia tăng nguồn nhiên liệu cho giao thông vận tải, công nghiệp và sinh hoạt. Đó là nguồn nhiên liệu sinh học, mà chủ yếu là cồn sinh học (gasohol) và diesel sinh học (biodiesel). Cồn sinh học, mà thực chất là etanol được sản xuất từ ngũ cốc, sắn, mía, củ cải, kể cả xác các loại thực vật..., đang được nhiều nước như Mỹ, Brazil, Trung Quốc, Thái Lan, Philippines... sản xuất với quy mô không nhỏ để thay thế hoặc pha lẫn với xăng. Trong khi đó, biodiesel sản xuất từ các loại dầu thực vật, chủ yếu là dầu hạt cải (rape oil) và dầu hướng dương (sunflower oil) thì lại được nhiều nước châu Âu chú trọng.
Năm 2005, EU đã sản xuất và tiêu thụ khoảng 10 triệu tấn biodiesel. Và để đón đầu và tiếp cận sự "ra đi" của kỷ nguyên dầu khí có khả năng xảy ra vào nửa cuối thế kỷ này, các nhà khoa học trên thế giới còn có những kịch bản hấp dẫn và lãng mạn hơn nữa. Đó là năng lượng nhiệt hạch (năng lượng phát ra khi tổng hợp hạt nhân chứ không phải năng lượng phân rã hạt nhân như trong các nhà máy điện nguyên tử hiện nay), năng lượng mặt trời, các dạng năng lượng tái tạo khác và nhất là năng lượng hydro lấy từ nước thông qua phản ứng quang - xúc tác.
Có thể nói, dầu mỏ đã trở thành động lực phát triển của thế giới trên con đường tiến tới văn minh, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra biết bao biến động xã hội để tàn phá nền văn minh đó. Nhưng đó là định mệnh chăng? Năng lượng nguyên tử, thậm chí lúc mới được phát hiện, chưa mang lại lợi ích gì cho nhân loại thì đã gây tai họa, nhưng rồi nó cũng phải thuần phục để phục vụ lợi ích con người. Và chúng ta hy vọng khi phải chia tay với kỷ nguyên dầu khí, thì loài người đã có trong tay những nguồn năng lượng thay thế dồi dào và sạch hơn.
Đúng như lời của tác giả cuốn sách này, dầu mỏ (và khí thiên nhiên) đã tạo nên "những thay đổi vĩ đại" trong hơn một thế kỷ nay của lịch sử nhân loại. Qua những trang sách, độc giả sẽ nhận rõ, một mặt, những "cống hiến" to lớn của dầu mỏ đối với sự phát triển thần kỳ của thế giới, mặt khác, những "tội lỗi" tày trời trong việc tiếp tay cho những kẻ tham tiền bạc và những thế lực tham quyền lực gây ra chết chóc, bất công xã hội và những cuộc tàn phá kìm hãm nền văn minh nhân loại. Đó là chưa kể "tội" của dầu mỏ đang cùng với các nhiên liệu hóa thạch khác gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường và sự nóng lên của toàn cầu.
Và, khi gấp cuốn sách lại, chắc chắn độc giả sẽ đồng ý với tác giả Daniel Yergin rằng, biên niên sử mà tác giả đã trình bày hết sức sắc sảo và hấp dẫn trong cuốn sách này thật sự là "thiên sử thi về cuộc kiếm tìm dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực" trong quá khứ, hiện tại và cả trong tương lai.
Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Mobile VerionPhiên bản di động