Đảm bảo vốn vay lãi suất thấp cho doanh nghiệp phục hồi sau dịch Covid-19 |
Báo Công Thương ghi nhận ý kiến của các chuyên gia kinh tế “hiến kế” để doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch bên lề Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp với chủ đề “Chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững”, diễn ra ngày 11/8.
TS Lê Đạt Chí - Phó Trưởng Khoa Tài chính - Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh: Cần chú trọng giải ngân đầu tư công
TS Lê Đạt Chí |
Trước bối cảnh lạm phát có chiều hướng gia tăng, việc đưa ra các chính sách tín dụng càng thận trọng để giảm lạm phát. Vì thế mục tiêu điều hành của Ngân hàng Nhà nước là đảm bảo sự cân bằng giữa tốc độ tăng lãi suất và chính sách tăng trưởng tín dụng. Ngân hàng Nhà nước thận trọng hơn trong điều hành chính sách tiền tệ, đưa lãi suất VND ở mức hợp lý so với lãi suất USD. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể sẽ thận trọng hơn trong việc nâng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại trong nửa cuối năm nay.
Vì thế để hỗ trợ doanh nghiệp, duy trì tăng trưởng kinh doanh, kìm đà tăng lạm phát vấn đề còn lại là phải thúc đẩy đầu tư công nhất là của khu vực tư nhân. Hơn nữa, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bởi trong những tháng cuối năm 2022, các yếu tố rủi ro đến từ bên ngoài vẫn tiếp tục tác động đến doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Thực tế cho thấy các chính sách thúc đẩy đầu tư công thông qua các gói giải pháp thời gian qua có nhiều song chưa mang lại hiệu quả cao, thiết thực cho các doanh nghiệp.
Việc giải ngân vốn đầu tư công nhất là vốn vay của khu vực tư nhân còn chậm, quyết toán chậm, lãi cao đi kèm với đó là vật tư cả leo thang làm kéo theo dự toán các chi phí tăng càng làm cho việc giải ngân, quyết toán đầu tư công chồng thêm khó khăn. Chính phủ, các Bộ ngành giải quyết những nút thắt liên quan đến hoạt động đầu tư công nhất là của khu vực tư nhân (vì khu vực này dùng vốn vay ngân hàng) sẽ là đòn bẩy kích thích tăng trưởng cho các doanh nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu: Cần triển khai nhanh hơn hiệu quả hơn các gói tài chính hỗ trợ doanh nghiệp
TS Nguyễn Trí Hiếu |
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. Thời gian qua Ccộng đồng doanh nghiệp đặt kỳ vọng chương trình phục hồi gần 350 nghìn tỷ đồng, thực hiện trong năm 2022 - 2023 đi vào cuộc sống một cách nhanh nhất và có hiệu quả song thực chất việc triển khai cần phải tăng tốc hơn nữa nhất là trong bối cảnh nước rút hiện nay.
Phải nhìn nhận thực tế rằng việc triển khai các gói hỗ trợ tài chính này còn nhiều rào cản cả từ phía ngân hàng và doanh nghiệp. Ngân hàng chưa hẳn đã mặn mà thúc đẩy nhanh khi mặt bằng lãi suất cho vay thấp và lãi huy động có xu hướng ngày càng tăng cao, phải đảm bảo các yếu tố phòng tránh rủi ro cho nên các quy định cũng không dễ dàng cho doanh nghiệp tiếp cận vốn.
Gói hỗ trợ phục hồi kinh tế xã hội gần 350 nghìn tỷ đồng triển khai, trong đó tiếp tục hỗ trợ lãi suất và giảm thuế VAT 2% sẽ thực sự là liều thuốc hữu ích để các doanh nghiệp cơ cấu lại nợ và khôi phục sản xuất, kinh doanh. Thời điểm này, hiệu quả của chương trình phục hồi kinh tế phụ thuộc vào quy mô gói hỗ trợ và tốc độ triển khai. Doanh nghiệp mong muốn chính sách hỗ trợ cũng phải nhanh và hiệu quả, đúng đối tượng, công khai, minh bạch...
Hiện nay các ngân hàng vẫn đang đẩy mạnh tín dụng và đẩy một lượng tiền lớn vào lưu thông. Nhiều ngân hàng đã dùng hết room tín dụng và hiện đang xin Ngân hàng Nhà nước cấp thêm room tín dụng. Tất cả những điều này là hiển nhiên trong bối cảnh nền kinh tế cần được tiếp sức để tiếp tục quá trình phục hồi. Tuy nhiên, những điều này đang đi ngược lại chủ trương chống lạm phát khi với một dòng vốn tín dụng tiếp tục đổ vào nền kinh tế trong khi rủi ro lạm phát ngày càng cao. Vì thế chính sách tài khóa hiện nay hãy để mặt bằng lãi suất cho vay tăng khoảng 1%- 1,5% từ nay đến cuối năm để kiểm soát lạm phát, đồng thời khẩn trương giúp Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ kinh tế, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, từ phía Chính phủ cũng đã và cần thúc đẩy nhanh các chương trình cải cách thủ tục hành chính, các chương trình tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, xóa bỏ các thủ tục đầu tư rườm rà, thuế, hải quan phải thật sự minh bạch, tránh tham ô nhũng nhiễu doanh nghiệp.
Ông Phạm Thái Bình - Chuyên gia ngành bán lẻ tiêu dùng: Cần chính sách nhất quán, đồng bộ
Ông Phạm Thái Bình |
Sau hai năm “gồng mình” chống dịch, hầu hết các doanh nghiệp đều đang đuối sức, rất cần các chính sách hỗ trợ. Cụ thể trong lĩnh vực hàng tiêu dùng - hiện nay thị trường nội địa được nhận định là nơi “trú ẩn” an toàn của các doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay sức mua ở nội địa đang chịu ảnh hưởng bởi thu nhập của người dân sụt giảm (do việc làm của họ không ổn định, lương giảm). Bên cạnh đó, thị trường nội địa cũng đang chịu tác động của việc giá cả leo thang, dẫn tới người dân giảm chi tiêu.
Để thúc đẩy tiêu dùng nội địa, các Bộ, ban ngành phải cùng ngồi lại bàn bạc với nhau, đưa ra chính sách chung, nhất quán, chứ một mình Bộ Công Thương không thể gỡ hết các vướng mắc của doanh nghiệp liên quan đến tài chính, thuế, hạ tầng… Câu chuyện giảm giá xăng dầu đã cho thấy phải có sự chung tay. Hiện giá xăng dầu đã giảm và các vấn đề khác cũng vậy.
Theo đó, thứ nhất phải xem lại chính sách cơ sở hạ tầng như chi phí đường bộ, chi phí cảng biển, chi phí vận tải… bởi đây là những yếu tố để thúc đẩy kích hoạt tiêu dùng. Thứ hai là phải rốt ráo quản lý thị trường chặt chẽ hơn thông qua Luật một cách triệt để hơn, không để tình trạng mỗi nơi mỗi giá, mỗi địa phương mỗi kiểu. Thứ ba phải có giám sát chặt hơn về giá cả chất lượng sản phẩm.
TS Trần Hữu Hiệp - Chuyên gia nghiên cứu độc lập về phát triển kinh tế của vùng Đồng bằng sông Cửu Long: Thúc đẩy kết nối- giao thương cung cầu cho doanh nghiệp
TS Trần Hữu Hiệp |
Có thấy từ đầu năm 2022 đến nay doanh nghiệp phục hồi khá tốt, tinh thần tái sản xuất kinh doanh lên cao. Song hiện có các rào cản cần lưu ý, nếu không độ trễ của nó sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế. Cụ thể lạm phát ở các nước quá cao, có doanh nghiệp không dám nhận đơn hàng vì nguyên vật liệu tăng cao, việc giải ngân vốn vay vẫn khó, lạm phát khiến dân giảm chi tiêu.
Đặc biệt, hỗ trợ doanh nghiệp trong gói 350.000 tỉ đồng cần đẩy nhanh, khi mà trong bối cảnh phục hồi nền kinh tế sau đại dịch, doanh nghiệp rất khát vốn. Do đó, cần đáp ứng vốn cho doanh nghiệp thời điểm này để không bỏ lỡ cơ hội phục hồi của doanh nghiệp và cả nền kinh tế càng về các quý cuối năm càng lớn. Đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên vật liệu gia tăng từng ngày, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp lại càng "nóng" hơn bao giờ hết. Về chính sách kích cầu hỗ trợ phục hồi kinh tế, cần sáng tạo các giải pháp riêng, phù hợp với tình hình. Trong đó, tập trung vào các giải pháp thúc đẩy đầu tư công để tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo động lực cho các doanh nghiệp ngành sắt thép, xây dựng... phát triển và lan tỏa tới các khu vực khác.
Về các vấn đề tăng lưu thông hàng hóa tiêu dùng cần tiếp tục đẩy mạnh liên liên kết vùng để tiêu thụ hàng trái cây, nông sản các tỉnh, thành phố nhất là tại Đồng bằng sông Cửu Long; kết nối giao thương doanh nghiệp sản xuất-cung ứng, xuất khẩu, tham gia cung ứng nông sản, thực phẩm và xúc tiến thương mại góp phần giúp doanh nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa...
Tăng cường các chương trình khuyến mãi, các chương trình xúc tiến thương mại gắn với đẩy mạnh xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam sẽ góp phần kết nối hiệu quả giữa sản xuất và tiêu thụ, kết nối giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng để hình thành các chuỗi cung ứng hàng Việt... nhằm thúc đẩy tiêu dùng nội địa, tăng trưởng về doanh thu cho doanh nghiệp, tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng.
TS Huỳnh Thanh Điền - Giảng viên Trường Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh: Chậm triển khai gói tài chính 40 ngàn tỷ là chậm đưa doanh nghiệp trở lại đường đua
TS Huỳnh Thanh Điền |
Mặc dù doanh nghiệp nào cũng cần được hỗ trợ nguồn vốn để vượt qua khó khăn sau đại dịch và phục hồi sản xuất nhưng điều mà doanh nghiệp cần hơn cả đó là một hệ thống cơ chế, chính sách thật sự tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chỉ có thể tiếp cận vốn khi thủ tục, điều kiện tiếp cận vốn đơn giản, không còn bất hợp lý, tiếp cận được vốn hơn nữa thì họ mới có thể thu mua nguyên liệu, tự tin lên kế hoạch sản xuất kinh doanh, góp phần giải quyết công ăn việc làm, mở rộng đơn hàng xuất khẩu nhất là trong những tháng cuối năm này.
TS Sử Ngọc Khương - Giám đốc cấp cao Bộ phận đầu tư Savills Việt Nam: Tháo 3 nút thắt để thị trường bất động sản phát triển
TS Sử Ngọc Khương |
Có 3 yếu tố then chốt cần tháo gỡ để giúp cho thị trường bất động sản phát triển một cách lành mạnh, bền vững và minh bạch.
Thứ nhất là là hành lang pháp lý, pháp luật trong việc cấp phép, phê duyệt các dự án từ 1/2.000, 1/500 đến giấy phép xây dựng rồi xác định tiền sử dụng đất. Pháp lý khó làm cho nguồn cung trên thị trường kém dẫn đến thị trường không thực sự là minh bạch.
Thứ hai là liên quan đến dòng tiền, có nghĩa là nguồn tín dụng, ở đây cần có sự cân nhắc đối với dự án hoặc người mua, chứng minh sự phát triển của dự án tốt… cần sự hỗ trợ của các ngân hàng, các định chế tài chính.
Thứ ba là về quy hoạch cần phải rõ ràng cho các nhà đầu tư hoặc các nhà phát triển dự án nhìn thấy những quy hoạch rõ ràng của mình.
Chuyên gia bất động sản Trần Khánh Quang: Cân đối lại cung - cầu trên thị trường
Từ khi sau dịch đến nay bất động sản đang phát triển một cách không trật tự, không có chuyên nghiệp tức nghĩa là phát triển không có bền vững, có nhiều lý do gây hậu quả đến ngày hôm nay.
Đối với thị trường bất động sản muốn phát triển ổn định sau dịch, đang gặp một số khó khăn nhất định gồm: Thứ nhất là mất cân đối cung - cầu, nguồn cung trên thị trường phân khúc trung cao cấp -hạng sang, còn cầu trên thị trường nhu cầu thực không có, dẫn tới lệch pha giữa cung - cầu và cần giải pháp điều chỉnh để đưa ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thực tế.
Chuyên gia bất động sản Trần Khánh Quang |
Thứ hai là về tín dụng, trước đây phát triển ồ ạt của việc cho vay bất động sản nhất là phát hành trái phiếu bất động sản không đúng mục đích tạo ra thị trường hút vốn về dự án mang tính đầu tư. Như vậy vô tình làm cho thị trường ảnh hưởng vạ lây, rom tín dụng đã hết, nhất là tín dụng về bất động sản. Điều đó với những bất động sản đầu cơ, đầu tư thì nên dùng biện pháp hạn chế. Còn đối với những sản phẩm bất động sản có nhu cầu thực thì chính sách tín dụng nên mở lại.
Thứ ba cần chính sách minh bạch và rõ ràng vì hiện nay chúng ta đang thiếu cái này. Chính sách không minh bạch, rõ ràng gây khó khăn cho doanh nghiệp, thành ra nguồn cung trên thị trường không thể kiểm soát được. Ngay thị trường lớn như TP. Hồ Chí Minh không có dự án bất động sản được cấp giấy phép trong 2 năm gần đây, thành ra tạo sự khan hiếm không đáng có. Cũng như chính sách về tách thửa đất tạo kẻ hở cho việc phân lô, bán nền tràn lan không đúng quy chuẩn. Do đó về chính sách pháp lý chúng ta nên đi theo một cái quy trình chuẩn, nhất là việc về định giá đất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm được giá thành của sản phẩm bao nhiêu để tung ra thị trường.
Cuối cùng là minh bạch thị trường, tức là những giao dịch trên thị trường bất động sản cần minh bạch, có như vậy thị trường mới minh bạch, để người mua lựa chọ về giá sản phẩm.
Ông Võ Hồng Thắng - Phó Giám đốc Nghiên cứu & Phát triển (R&D) DKRA Vietnam: Đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói 350 ngàn tỷ
Tôi cho rằng cần tăng cường đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói 350 ngàn tỷ đồng hỗ trợ kích thích kinh tế sau dịch (tính đến tháng 7/2022, mới giải ngân được 48 ngàn tỷ đồng). Đặc biệt, gói đầu tư vào hạ tầng giao thông sẽ giúp thị trường bất động sản hồi phục và tạo đòn bẫy để thị trường phát triển trong những năm tiếp theo.
Bên cạnh đó, đẩy nhanh, tháo gỡ vướng mắc pháp lý dự án để tăng nguồn cung ra thị trường giải quyết bài toán khan hiếm nguồn cung mới như hiện nay, nhất là phân khúc căn hộ tại các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Ngoài ra, cần công bố rộng rãi, minh bạch hóa thông tin quy hoạch, đồng thời tăng cường giám sát thị trường để giảm thiểu trình trạng sốt ảo, thổi giá.
Cuối cùng là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, ổn định lãi suất ngân hàng.