Ảnh minh họa: internet
CôngThương - Thành công
Năm 2007 xuất khẩu (XK) sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, đồ gỗ (gọi tắt là nông sản) đạt kim ngạch 12,5 tỷ USD, năm 2008 là 16 tỷ USD. Dù chịu tác động của suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu, năm 2009 nông sản xuất khẩu chỉ sụt giảm 600 triệu USD. Năm 2010 hồi phục và lấy lại đà tăng trưởng, đạt 19,2 tỷ USD với nhiều ấn tượng: Thuỷ sản thu gần 5 tỷ USD. Gạo đạt kỷ lục từ trước đến nay về số lượng và kim ngạch. Cao su vượt ngưỡng 2 tỷ USD. Nhân điều lần đầu cán mốc 1 tỷ USD. Gỗ và sản phẩm gỗ vượt kế hoạch 400 triệu USD. Giá bình quân chè XK cao hơn giá năm 2009 12%. Hồ tiêu số lượng giảm nhưng kim ngạch tăng tới 20%. Hoa Kỳ là thị trường số một về nhập khẩu cà phê của Việt Nam, đạt 248,7 triệu USD, tăng 26,4% so năm trước... Gạo, cà phê, hạt tiêu, nhân điều Việt Nam duy trì vị thế nhất nhì thế giới.
Việc tận dụng tiến bộ của khoa học nhất là về công nghệ sinh học, và với mô hình trang trại ngày càng chứng tỏ sức sống, đã cho ra nhiều sản phẩm mới, tạo sung lực mới về sức cạnh tranh góp phần thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, giải quyết lao động ở nông thôn.
Xúc tiến thương mại luôn đồng hành bằng những hoạt động sôi động trong nước và vươn ra quốc tế. Việc mở ra thị trường Hoa Kỳ được xem là điểm nhấn để XK đồ gỗ liên tục tăng 30-40%/năm.
Trăn trở
Lượng gạo XK năm 2010 tăng gấp rưỡi năm 2008, nhưng kim ngạch chỉ tăng 10%. Tại Luân Đôn,giá cà phê Việt Nam thường bị giảm 100-200 USD/tấn so với cà phê thế giới, có lúc tới 600 USD/tấn. Giá chè XK luôn thấp hơn giá chè bình quân của thị trường quốc tế. Cao su chủ yếu XK qua biên giới phía Bắc, lúc được giá ngay ngất, tranh nhau đưa hàng tới, khi bị phanh hãm dìm giá, xô đẩy lao đao...
Có khá nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ sâu xa nhất là tình trạng quá phân tán, tự tung tự tác từ sản xuất đến XK. Việc XK gạo của Việt Nam thua kém Thái Lan nhiều mặt, nhưng số đầu mối tham gia lĩnh vực này của họ chỉ hơn một chục còn ta tới hơn hai trăm. Mỗi năm ta chỉ XK trên một trăm tấn chè mà có tới 600 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh (không kể hàng ngàn hộ cá thể), trong đó có gần 200 doanh nghiệp trực tiếp XK. Cà phê mỗi nhà một khoảnh, việc thu hái, phơi sấy, bảo quản mỗi “tiểu điền” một kiểu, lại nơm nớp nạn hái trộm, khiến từ lâu nay phải hái non, làm khô cưỡng bức, nên luôn bị phàn nàn về chất lượng, có lúc bị thải loại tới 60%, chiêm tới 80% số lượng cà phê thải loại trên thị trường XK thế giới. Ngành thuỷ sản và ngành điều có quá nhiều xí nghiệp chế biến làm trầm trọng tình trạng nguyên liệu và lãng phí công suất máy móc, nhà xưởng. Ngược lại, cơ sở chế biến sắn củ thường không kham nổi khi thu hoạch rộ. Năm 2010, khối lượng sắn và các sản phẩm từ sắn XK giảm 51,4% so với năm 2009.
Đúng ra là một nước có “rừng vàng, biển bạc, đồng xanh bát ngát”, việc XK sản phẩm nông nghiệp cứ vô tư thu lợi. Nhưng đáng tiếc, do khai thác bừa bãi, không ngó ngàng tái sinh, nên sớm suy kiệt, công nghiệp chưa đủ sức phục vụ nông nghiệp, nên phải nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu cho lĩnh vực này ngày càng nhiều, danh mục cứ dài thêm đến khó tin. Năm 2007 nhập khẩu 7 tỷ USD. Năm 2008 nhập cao hơn 4 tỷ USD. Năm 2009, do sụt giảm chung, còn 8 tỷ USD. Năm 2010 vọt lên 11,9 tỷ USD. Phân bón, thuốc bảo vệ cây trồng, vật nuôi, gỗ nguyên liệu, thức ăn cho gia súc, gia cầm và cho nuôi thả thuỷ sản, thuỷ sản nguyên liệu, hạt điều thô... là những mặt hàng đầu bảng. Thặng dư thương mại đáng thất vọng. Năm 2007, nhập khẩu “ngốn” 56% kim ngạch XK, năm 2010 lên tới 62%. Trong khi đó, phế liệu, dư lượng chất kháng sinh từ nguồn nhập về càng làm ngập ngụa môi trường, đầu độc nguồn nước.
Sản xuất nhỏ lẻ, XK phân tán tất yếu sẽ không tránh khỏi vấn nạn “quân ta phá quân mình”. Tranh mua sẽ đẩy giá đầu vào, giành giật khách bán ắt bị dìm giá. O ép hai đầu còn đâu lời lãi.
Đã từng chủ trương quy vùng, liên kết sản xuất theo quy mô lớn, tạo điều kiện áp dụng kỹ thuật mới, có khối lượng hàng hoá lớn đáp ứng hợp đồng dài hạn của khách hàng tiềm năng, chấm dứt XK hàng thô, nhưng chưa tiến triển đáng kể. Ý tưởng sắp xếp đội hình XK vẫn dậm chân tại chỗ. Việc xây dựng thương hiệu bề bộn việc phải làm. Yêu cầu về thông tin - giá cả thị trường còn bỏ ngỏ.... Năm qua rồi năm tới, vẫn cứ là điệp khúc: Bán đổ bán tháo lúc thu hoạch rộ nên chỉ thu được giá thấp, khi giá lên lại rỗng chân hàng. Thành thử được tiếng là có nhiều sản phẩm nông nghiệp XK đứng thứ hạng cao trên thế giới nhưng vẫn ít tiếng tăm, là vậy.
Thách thức mới
Với hành trang nghèo nàn, ít được nhà đầu tư ngó ngàng, nông nghiệp là lĩnh vực chịu nhiều ảnh hưởng trong quá trình hội nhập.
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng ở các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, sẽ dựng thêm rào cản, buộc ta vào các vụ kiện, áp đặt kiểm tra ngặt nghèo, luôn nhận thua, chịu thiệt. Các doanh nghiệp nước ngoài - với tiềm lực nhiều mặt, theo lộ trình mở cửa đang đổ bộ vào trực tiếp kinh doanh nông sản tại Việt Nam, chắc chắn sẽ dồn ép các đồng nghiệp chủ nhà.
Việc nhập khẩu nguyên liệu vốn đã nhiều, nay giá bên ngoài đang lên cộng hưởng với tỷ giá mới, không biết các nhà kinh doanh sẽ định liệu thế nào. Lao theo, sẽ “đội” nhập khẩu của cả nước. Co hẹp ắt ảnh hưởng ngay tới XK. Riêng các nhà nhập khẩu không trực tiếp tái tạo ra ngoại tệ, phải tự xoay vốn ngoại, càng làm cho lời giải khó hơn.
Khi chuỗi khó khăn cố hữu chưa kịp khắc phục, chỉ riêng việc giá đã “dậy sóng”, các doanh nghiệp sẽ bơi trên “mặt bằng giá mới” thế nào.