Việt Nam là thị trường rất nhạy cảm về giá
Bà Louise Hawley - Tổng giám đốc Nielsen Việt Nam - cho hay, trong báo cáo nghiên cứu thị trường năm 2019 của Nielsen, độ co giãn về giá của Việt Nam là âm 2 - cao nhất so với các nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á. 80% người tiêu dùng được hỏi cho biết họ nhận thức và biết rõ khi giá thay đổi. "Độ co giãn về giá là sự thay đổi về mặt doanh thu khi DN thay đổi về giá. Khi đề cập độ co giãn về giá tại Việt Nam là âm 2 có nghĩa là khi DN tăng giá 1% thì doanh thu giảm đi 2%", bà Louise Hawley nói.
Cũng theo bà Louise Hawley, Việt Nam cũng là một thị trường bị ảnh hưởng rất nhiều bởi khuyến mãi. 56% doanh thu của DN được tạo ra từ chương trình khuyến mãi, tuy nhiên, hiệu quả bởi khuyến mãi chỉ có 29%, con số này rất thấp so với mặt bằng chung của toàn cầu là 50%.
80% người tiêu dùng được hỏi cho biết họ nhận thức và biết rõ khi giá thay đổi |
Liên quan đến vấn đề giá, bà Nguyễn Phương Nga - Giám đốc phát triển kinh doanh Kantar Vietnam World Panel - cho hay, người dân toàn cầu thể hiện mối quan tâm ngày càng lớn về tác động nặng nề và kéo dài của Covid-19. Trong khi đó, ở Việt Nam, mọi người dân đang dần trở lên lạc quan hơn. Tuy nhiên, qua đại dịch, thu nhập của người Việt ít nhiều bị ảnh hưởng, giá cả hàng hóa do đó cũng trở thành vấn đề nhạy cảm hơn. Sự khác biệt về vùng miền hay giai đoạn sống cũng ảnh hưởng đến mức độ nhạy cảm về tình hình hiện tại. Do đó, sẽ có sự thay đổi trong mô hình tăng trưởng của ngành hàng tiêu dùng nhanh, tùy thuộc vào bản chất của thương hiệu và ngành hàng, cũng như khác biệt về địa lý và nhân khẩu học.
Bà Nga nhận định, sau dịch Covid-19, trong bốn nhóm hàng chính của ngành hàng tiêu dùng nhanh thì nhóm mặt hàng sức khoẻ và vệ sinh (như nước rửa tay, sản phẩm vệ sinh bề mặt, sản phẩm bổ sung dinh dưỡng, mặt hàng sữa) sẽ có nhu cầu tiếp tục tăng. Còn nhóm mặt hàng nấu ăn và ăn vặt (gia vị, đồ ăn vặt, thực phẩm gói & đông lạnh, các bữa ăn thay thế) sẽ ít nhu cầu hơn.
Trong khi đó, nhóm mặt hàng trở lại với nhu cầu thông thường là những nhu yếu phẩm sử dụng lâu dài (như giặt ủi, dầu gội, kem đánh răng, nước rửa chén, đồ uống không cồn). Còn lại là nhóm mặt hàng phục hồi chậm là những mặt hàng không thường xuyên dùng như mỹ phẩm, đồ uống có cồn, nước hoa và lăn khử mùi.
Đưa ra khuyến nghị cho các DN, bà Nga cho rằng, các DN cần kiên nhẫn đợi, người tiêu dùng sẽ quay trở lại. Chỉ có điều khi người tiêu dùng quay lại thì họ chọn sản phẩm nào, có chọn sản phẩm của công ty mình hay không là cả bài toán mà các DN phải giải. Do đó, các DN cần cập nhật thường xuyên trên số liệu người mua hàng. Nhất là tìm hiểu hàng tháng hoặc hàng tuần về sự thay đổi hành vi của người tiêu dùng. Các DN cũng nên dự báo về nhu cầu. Nhất là cần hiểu về nhu cầu của người tiêu dùng hậu Covid-19 và giải pháp để bù đắp những dịp sử dụng bị mất đi.
Mặt khác, DN có thể tìm động lực tăng trưởng từ các hoạt động tiếp thị. Cần đặt vấn đề là những yếu tố nào của các hoạt động tiếp thị sẽ giúp đẩy nhanh tăng trưởng sau đại dịch. Chẳng hạn như quảng cáo, khuyến mãi, các hoạt động tại cửa hàng, hệ thống phân phối với những vai trò và tầm quan trọng khác nhau.
Hoặc DN nên nhắm vào những dịp sử dụng mới. Cụ thể như tìm ra những dịp sử dụng mới phát sinh trong và sau thời gian đại dịch bùng phát là cần thiết trong việc phát triển những sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong tương lai.
Tính nhạy cảm về giá của người tiêu dùng là một trong những yếu tố mà các nhà lập kế hoạch thị trường cần phải nắm vững. Một trong những chức năng của giá là sự co giãn của các cơ hội thị trường. Bà Louise Hawley nhận định, với tình trạng nhiều người bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch bệnh Covid-19 hiện nay, có chiến lược đúng đắn về giá cả và khuyến mãi là vô cùng cấp thiết. Theo đó, đối với tất cả các DN nói chung, trước khi áp dụng chiến lược thay đổi về giá của mình thì cần có một bức tranh tổng quát, chi tiết về độ co giãn về giá đối với các ngành hàng đang bán ở các kênh khác nhau.