Thay đổi tiếp cận từ “bảo vệ lao động nữ” sang “thúc đẩy bình đẳng giới”
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vận hành theo cơ chế thị trường, hội nhập khu vực và quốc tế, cùng với tác động của cách mạng công nghiệp – khoa học 4.0, quy định liên quan đến bình đẳng giới của Bộ luật Lao động năm 2012 bộc lộ một số vấn đề hạn chế cần được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện phù hợp với thời đại mới.
Tại Hội thảo tham vấn thúc đẩy bình đẳng giới trong sửa đổi Bộ luật Lao động, Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà cho biết: “Trên cơ sở nghiên cứu thực tế và kinh nghiệm các nước, đã đến lúc cần nghiên cứu thay đổi cách tiếp cận từ “bảo vệ lao động nữ” sang cách tiếp cận “thúc đẩy bình đẳng giới” đối với cả lao động nam và lao động nữ. Những quy định riêng đối với lao động nữ của Bộ luật Lao động nữ hiện hành cần sửa đổi thành quy định về các biện pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới trên thực tế. Việc sửa đổi Bộ luật Lao động lần này là cơ hội để xem xét, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách để thúc đẩy bình đẳng giới cho phù hợp với tình hình mới”.
Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà khẳng định việc thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt kinh tế - xã hội |
Về cơ bản, Bộ luật Lao động hiện hành đã đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới, có biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong đó có các quy định riêng đối với lao động nữ, chủ yếu là quy định về bảo vệ thai sản. Tuy nhiên một số quy định riêng với mục tiêu bảo vệ lao động nữ thực tế lại có tác động bất lợi cho lao động nữ như: cấm lao động nữ làm việc ở một số công việc, quy định về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ thấp hơn lao động nam 5 năm….
Một số biện pháp bảo vệ lao động nữ nói chung, bảo vệ sức khỏe sinh sản nói riêng do còn chịu ảnh hưởng của định kiến giới nên chưa bảo đảm về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của lao động nam và lao động nữ trong công việc và trong gia đình (chế độ trợ cấp chi phí gửi trẻ, quyền nghỉ việc để thực hiện biện pháp tránh thai, chăm sóc con ốm đau chỉ được quy định đối với lao động nữ mà không xét với lao động nam…). Một số quy định bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới rất hợp lý song tính khả thi không cao do thiếu quy định cụ thể phù hợp như: chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, chính sách đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ…. Các quy định như vậy không còn phù hợp với cách tiếp cận hiện đại về thúc đẩy bình đẳng giới.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà khẳng định: “Những dự kiến sửa đổi, bổ sung lần này có tác động lớn không chỉ với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mà còn đối với việc làm, thu nhập, điều kiện làm việc và cuộc sống của hàng chục triệu lao động cũng như thành viên gia đình họ. Vì vậy việc đánh giá tác động giới và vấn đề bình đẳng giới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt kinh tế - xã hội”.
Các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định về bình đẳng giới không chỉ để bảo vệ quyền lợi cho người lao động mà còn giúp tăng cường năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của doanh nghiệp thông qua việc ổn định và phát triển nguồn nhân lực.
Thúc đẩy bình đẳng giới để tăng khả năng cạnh tranh kinh tế
Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), việc thực hiện sửa đổi Bộ luật Lao động góp phần mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường EU và các nước CPTPP thông qua cắt giảm 99% thuế nhập khẩu trong vòng 10 năm. Đây cũng là công cụ để Việt Nam thực thi các cam kết quốc tế trong lĩnh vực bình đẳng giới tại nơi làm việc, đẩy mạnh tiềm năng trở thành quốc gia dẫn đầu khu vực trong việc tôn trọng các quyền cơ bản trong lao động, làm nền tảng thúc đẩy tăng năng suất và khả năng nạnh tranh của nền kinh tế.
Việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Lao động do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thực hiện với sự hỗ trợ của chính phủ Australia và cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và thúc đẩy quyền năng phụ nữ tại Việt Nam tập trung vào bốn nội dung chính:
Thứ nhất, thu hẹp và tiến tới xóa bỏ khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ.
Thứ hai, bảo đảm, thúc đẩy bình đẳng giới, không phân biệt đối xử trên cơ sở giới về cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện quyền và hưởng thụ lợi ích trong lao động, đặc biệt là thực hiện chức năng thai sản, chăm sóc con nhỏ phù hợp với đặc điểm giới tính.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế chia sẻ trách nhiệm một cách phù hợp, hiệu quả giữa Nhà nước và người sử dụng lao động trong việc tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo và hỗ trợ người lao động gửi con vào nhà trẻ, lớp mẫu giáo.
Thứ tư, hoàn thiện khung pháp lý phòng chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc, góp phần bảo đảm môi trường làm việc an toàn, lành mạnh.
Đây vấn đề căn bản, cốt lõi về thúc đẩy bình đẳng giới trong Bộ luật Lao động, có tác động trực tiếp, sâu rộng đến hàng ngàn doanh nghiệp, hàng chục triệu lao động trên thị trường lao động của Việt Nam. Những sửa đổi của Bộ luật nhằm cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc làm, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Bộ luật Lao động sửa đổi dự kiến sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 vào tháng 5/2019 và thông qua tại kỳ họp thứ 8 vào tháng 10/2019.