Than đá của Nga đổ đi đâu trong xung đột với Ukraine?
Ngày 5/12/2022, Liên minh châu Âu (EU) bắt đầu cấm mua dầu từ Nga, đồng thời, G7, EU và Australia chính thức áp mức trần giá đối với dầu của Nga ở mức 60 USD/thùng đối với dầu thô xuất khẩu bằng đường biển.
Khoảng 1 tháng trước, hầu hết các quốc gia trên thế giới vẫn chưa tham gia lệnh trừng phạt của EU đối với Nga, và các biện pháp mà EU đưa ra đã phản tác dụng, giá năng lượng tiêu dùng ở châu Âu đã tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm ngoái, mức cao nhất trong lịch sử. Chính phủ các nước EU buộc phải thực hiện các chính sách trợ cấp cho các hộ gia đình, riêng Đức đã phân bổ hơn 83,3 tỷ euro cho các khoản trợ cấp này.
Ngành than của Nga đang chịu sự trừng phạt của EU |
EU đang trừng phạt Nga hay tự trừng phạt mình?
Khía cạnh khó hiểu nhất trong chiến lược trừng phạt của EU đối với Nga là các biện pháp trừng phạt này được cho là nhằm vào Tổng thống Vladimir Putin và một số người chịu trách nhiệm về cuộc xung đột Nga - Ukraine, nhưng trên thực tế, các biện pháp này lại cản trở họ đạt được mục tiêu của mình.
Trong nhiều thập kỷ, Nga đã xuất khẩu các loại nhiên liệu hóa thạch khác nhau - chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt và than đá sang châu Âu. Năm 2019, trước khi đại dịch Covid-19 làm suy giảm đáng kể nhu cầu năng lượng của châu Âu, EU đã nhập khẩu 254 triệu tấn dầu, 157 tỷ m3 khí tự nhiên và 50 triệu tấn than từ Nga, trị giá lần lượt là 71,75 tỷ euro, 36,73 tỷ euro và 4,93 tỷ euro.
Mặc dù các biện pháp trừng phạt của EU nhằm giảm thu nhập của Nga, nhưng châu Âu đã không áp đặt bất kỳ hạn chế nào đối với Gazprom - công ty xuất khẩu độc quyền của PJSC Gazprom. Hơn nữa, 72% -78% sản lượng dầu của Nga do nhà nước hoặc một vài cá nhân chi phối chính sách khống chế, do vậy, các biện pháp trừng phạt của EU đã nhiều lần bị trì hoãn.
Trái ngược với tình hình của hai loại nhiên liệu hóa thạch nói trên, hoạt động sản xuất than ở Nga gần như hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân và hầu như không có mối liên hệ nào với Điện Kremlin. Tuy nhiên, than đá đã trở thành mặt hàng xuất khẩu đầu tiên của Nga bị trừng phạt toàn diện, với lệnh cấm vận chuyển hoàn toàn vào ngày 1/8/2022. Ngành than chỉ chiếm 0,2% tổng thu ngân sách của Nga, ngành này được miễn loại thuế quan trọng nhất gọi là “thuế khai thác mỏ”, loại thuế này rất cao đối với các công ty dầu khí và đang tăng lên hàng năm.
Không giống như ngành dầu khí, ngành than của Nga đã bị các công ty tư nhân thống trị trong nhiều năm, vì hầu hết các mỏ than đều tuyên bố phá sản sau sự sụp đổ của Liên Xô hoặc ở trong tình trạng tài chính tồi tệ trong một thời gian dài. Chỉ trong mười năm 1988-1998, sản lượng than của Nga đã giảm từ 440 triệu tấn xuống còn 250 triệu tấn, giảm 43,1% và nhiều cơ sở khai thác than đã được bán đấu giá với giá cực thấp.
Các doanh nhân gia nhập ngành, bao gồm Andrey Melnichenko, người sau này đã hợp nhất SUEK - tập đoàn than lớn nhất của Nga, Iskander Makhmudov - chủ sở hữu của TGMK và Aleksander Abramov - người sáng lập EV-RAZ, người đã thành công trong các lĩnh vực khác nhau và mở rộng sang ngành than, một phần vì tài sản trong ngành đó cực kỳ rẻ vào thời điểm đó, và một phần vì hoạt động kinh doanh cốt lõi của họ (chẳng hạn như các doanh nghiệp gia công kim loại) phụ thuộc vào các nhà cung cấp than.
Ông Andrey Melnichenko, người hiện kiểm soát khoảng 1/4 sản lượng than của Nga, đã tham gia ngành than với tư cách là chủ ngân hàng trong giai đoạn cuối của quá trình tư nhân hóa và mua lại thành công các mỏ mắc nợ nhiều nhất, đang gặp khó khăn trong việc xoay chuyển tài chính.
Từ năm 2002-2021, năng lực sản xuất của các mỏ than do ông đứng tên tăng 3,5 lần. Những nỗ lực này, cùng với hiệu suất của các nhà sản xuất than khác, đã góp phần phục hồi ngành than của Nga, cuối cùng đưa sản lượng than của Nga trở lại mức khoảng 440 triệu tấn thời Liên Xô vào năm 2018 và 2019.
Tất cả các doanh nhân đã giúp vực dậy ngành than của Nga hiện đang phải chịu lệnh trừng phạt trực tiếp của EU và Anh, điều này không chỉ ngăn cản hoạt động xuất khẩu của họ sang châu Âu mà còn ảnh hưởng đến các giao dịch toàn cầu của họ, vì hầu hết các công ty này phụ thuộc rất nhiều vào thị trường quốc tế và bên ngoài nước Nga, ví dụ: SUEK là một công ty của Thụy Sĩ, EV-RAZ là một công ty của Anh.
Tác động thực tế từ lệnh cấm vận của châu Âu đối với nhiên liệu hóa thạch của Nga rất khác so với dự kiến. Một mặt, nguồn cung dầu của Nga cho EU và nguồn cung khí đốt tự nhiên cho đến trước tháng 6/2022 vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. Ngay cả trong tháng 10/2022, người tiêu dùng châu Âu vẫn là những người mua dầu lớn nhất của Nga.
Mặt khác, giá đạt đỉnh vào cuối mùa hè, với hợp đồng tương lai khí đốt TTF của Hà Lan, giá đã tăng lên 3.200 USD/1.000 m3, gần gấp 12 lần giá một năm trước. Trong trường hợp này, nguồn cung cấp than có thể làm dịu cuộc khủng hoảng, nhưng người châu Âu đã có quan điểm cứng rắn và việc xuất khẩu than của Nga sang châu Âu đã bị dừng lại.
Than của Nga “chảy về phía Đông”
Sau khi các biện pháp trừng phạt của phương Tây trở nên không thể đảo ngược, các nhà sản xuất Nga bắt đầu định hướng lại chuỗi cung ứng, gửi phần lớn nguồn cung sang phương Đông. Do những thay đổi mạnh mẽ mà ngành công nghiệp than của Nga trải qua, sự hiện diện của người mua Trung Quốc đã tăng lên đáng kể. Họ không chỉ giành chiến thắng khi tham gia vào thị trường than của Nga mà còn thu được những lợi ích kinh tế chưa từng có, vì Trung Quốc đã trở thành “người mua cuối cùng” của nhiều nhà sản xuất.
Bản thân Trung Quốc là nhà sản xuất than lớn nhất thế giới, sản xuất hơn 4,1 tỷ tấn than vào năm 2021, đồng thời tăng mua than của Nga, từ 16 triệu tấn năm 2015 lên 53 triệu tấn năm 2021. Đến năm 2022, sản lượng than của Nga vẫn gần bằng mức năm 2021, nhưng ngành công nghiệp trong nước và nhu cầu từ các nhà nhập khẩu châu Âu lại giảm mạnh.
Kể từ năm 2021, xuất khẩu than của Nga tập trung vào Trung Quốc, Bắc Kinh đã mua 53,6 triệu tấn than vào năm 2021, trong khi tất cả các nước thành viên EU mua 50,4 triệu tấn. Vào năm 2022, Trung Quốc có thể mua lượng than từ Nga gấp đôi so với châu Âu mua từ Nga.
Trung Quốc đang là nước nhập khẩu than lớn nhất của Nga |
Thị trường Trung Quốc sẽ càng trở nên quan trọng hơn, một mặt là do lượng mua ở thị trường châu Âu giảm mạnh, mặt khác, hoạt động vận chuyển than xuất khẩu của Nga ban đầu phụ thuộc rất nhiều vào các công ty châu Âu - 65% đến 80% tổng số tàu vận chuyển than của Nga vào năm 2021 được đăng ký tại EU, các công ty này hiện đã ngừng hoạt động do lệnh trừng phạt chống lại Nga.
Do đó, Trung Quốc hiện không chỉ là người mua than lớn nhất của Nga mà còn là người mua dễ vận chuyển nhất, vì phần lớn nguồn cung có thể được vận chuyển qua các cảng của Nga ở Thái Bình Dương hoặc trực tiếp bằng đường sắt.
Việc “quay về phía Đông” của thương mại than Nga đã dẫn đến những thay đổi đáng kể về thuế quan và điều kiện cung cấp than. Một trong những lý do chính khiến than Nga được bán rộng rãi ở châu Âu và châu Á trước khi bắt đầu xung đột Nga - Ukraine là chính sách trợ cấp chi phí vận chuyển than của ngành đường sắt Nga, vì chính phủ coi ngành than là yếu tố sống còn để thúc đẩy việc làm và toàn bộ nền kinh tế Nga.
Vào năm 2021, than đá sẽ chiếm 28% khối lượng vận chuyển hàng hóa nhưng tạo ra chưa đến 9% doanh thu cho công ty. Điều đó đã thay đổi với sự bùng nổ của cuộc xung đột Nga - Ukraine, với việc các nhà khai thác đường sắt bắt đầu tăng giá cước - cả đối với dịch vụ vận tải và cho thuê toa xe. Do đó, giá cước đã tăng trung bình khoảng 27%-34%, trong khi giá cước của đường sắt phía Đông phục vụ Đông Siberia và Viễn Đông đã tăng 43% vào tháng 9/2022 so với tháng 1/2021.
Vào tháng 9/2022, tất cả các loại than được vận chuyển từ bể than lớn nhất của Nga ở Kemerovo, Novosibirsk và Cộng hòa Yakutia chỉ có thể được duy trì nếu chúng được vận chuyển đến Trung Quốc bằng đường bộ hoặc các cảng ở Thái Bình Dương. Trung Quốc hiện là điểm đến duy nhất mang lại lợi nhuận kinh tế cho than Nga, trong khi các chuyến hàng đến các điểm đến khác ngoài châu Âu lại chịu tổn thất đáng kể.
Điều này sẽ làm tăng xuất khẩu than sang Trung Quốc và tổng sản lượng than của Nga sẽ giảm, xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục ít nhất cho đến năm 2024. Tổng sản lượng của Nga sẽ giảm khoảng 80 triệu tấn, tương đương với 20% sản lượng trung bình hàng năm từ năm 2019 - 2021.
Quyết định của các nhà hoạch định chính sách phương Tây nhằm vào nguồn cung cấp than của Nga, đánh vào một số công ty tư nhân định hướng thị trường của Nga là điều hết sức khó hiểu. Có lẽ, lý do chính là các lô hàng than của Nga tương đối nhỏ và rất có thể sẽ bị thay thế bởi các quốc gia khác bên ngoài châu Âu hoặc được bù đắp bằng việc gia tăng các lô hàng từ bên trong EU (chủ yếu từ Ba Lan, Đức và Cộng hòa Séc).
Hơn nữa, EU đã áp dụng cách tiếp cận này vì chương trình nghị sự về năng lượng ở châu Âu phần lớn bị ảnh hưởng bởi các bên “xanh” khác nhau và than được coi là nguồn năng lượng “bẩn nhất” và nên được loại bỏ trước tiên.
Trong quá trình của trò chơi này, người châu Âu đã giáng một đòn mạnh vào các công ty tư nhân của Nga không có quan hệ với Điện Kremlin. Các biện pháp trừng phạt không chỉ nhắm vào các công ty chính, chẳng hạn như SUEK và EV-RAZ, mà còn cả những chủ sở hữu hưởng lợi của họ, chẳng hạn như Melnichenko và Abramov, đồng thời làm gián đoạn một phần quan trọng hoạt động kinh doanh toàn cầu của họ, buộc các doanh nhân này phải rời khỏi quê hương của họ ở châu Âu, nơi nhiều người trong số họ đã sống trong thập kỷ qua hoặc lâu hơn.
Người tiêu dùng Trung Quốc giờ đây sẽ được hưởng một vị trí thị trường độc nhất, vì xuất khẩu than của Nga sẽ tập trung nhiều hơn vào Trung Quốc vào năm 2023. Hiện tại, chi phí cộng với giá vận chuyển than của Nga đến các cảng Trung Quốc thường thấp hơn từ 12% đến 21% so với các cảng ở Ấn Độ Dương.