Ông Phạm Ngọc Minh: Luật cần quy định cụ thể về đánh bắt thủy sản, thậm chí cần cấp hạn ngạch đánh bắt chứ không thể đánh bắt vô tội vạ. |
Tờ trình của Chính phủ nêu rõ, Luật Thuỷ sản được có hiệu lực từ ngày 01/7/2004, đã tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng, điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thủy sản. Căn cứ Luật Thủy sản, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành trên 200 văn bản quy phạm pháp luật quản lý liên quan đến lĩnh vực thủy sản.
"Nhờ đó, trong những năm gần đây ngành thủy sản Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, có đóng góp lớn trong giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, năm 2016 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 7 tỷ USD" - Tờ trình của Chính phủ đánh giá.
Tuy nhiên theo Chính phủ, sau 13 năm thi hành Luật Thủy sản, thực tế đang đặt ra các yêu cầu cần phải nghiên cứu, sửa đổi như: Một số quy định của Luật đã bộc lộ hạn chế, bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển nhanh của ngành thủy sản Việt Nam; một số quy định mới của các Điều ước quốc tế về thủy sản đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Luật Thủy sản cho phù hợp; ... Mục tiêu của việc sửa đổi Luật là tập trung vào thiết lập khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội đối với ngành Thủy sản, đồng thời cải thiện môi trường kinh doanh trong hoạt động thủy sản nhằm thực hiện tái cơ cấu, phát triển sản phẩm giá trị tăng, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia trên biển và phát triển thủy sản bền vững.
Đồng tình với sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Thủy sản như Tờ trình của Chính phủ, song Cơ quan chủ trì thẩm tra dự án Luật Thủy sản (sửa đổi) - Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội - nhấn mạnh, thủy sản không phải là một nguồn tài nguyên vô tận, cần phải được bảo vệ và có chiến lược phát triển bền vững, nhất là trong tình hình hiện nay khi nguồn lợi thủy sản đang có xu hướng suy giảm nghiêm trọng trên các thủy vực nội địa và vùng ven biển do tình trạng khai thác thủy sản quá giới hạn cho phép, sự suy giảm của hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường sống, biến đổi khí hậu...
Đồng quan điểm với Cơ quan chủ trì thẩm tra, trong phần thảo luận, Thượng tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam Phạm Ngọc Minh khẳng định, nguồn thủy sản suy hiện đã giảm nghiêm trọng.
"Trước đây biển Việt Nam rất nhiều cá còn bây giờ từ Bạch Long Vĩ đến Phú Quốc đều không còn cá nữa" - Tướng Minh nói và chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này là do cách thức khai thác, đánh bắt tận diệt, thậm chí là hủy diệt như sử dọng chích điện, thuốc nổ...
"Luật cần có quy định cụ thể về đánh bắt thủy sản, thậm chí cần cấp hạn ngạch đánh bắt chứ không thể đánh bắt vô tội vạ" - ông Minh đề nghị Ban soạn thao lưu ý.
Cũng lo ngại về tình trạng khai thác thiếu kiểm soát, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng, An ninh Võ Trọng Việt phân tích, quy định tuyến bờ, tuyến lộng, tuyến khơi không đơn thuần là chỉ là giới hạn để khẳng định đâu là bờ, đâu là lộng, đâu là khơi mà còn có tác dụng phân định rõ, với mỗi tuyến này người ta được đánh bắt, khai thác nguồn lợi thủy, hải sản cụ thể nào?.
Dẫn chiếu quy định của các quốc giá khác, ông Việt cho biết, nhiều nước trên thế giới có quy định rất chặt chẽ về vùng, mùa được và không đánh bắt; kích cỡ thủy, hải sản được đánh bắt... và đề nghị xem xét nội dung này trong quá trình tiếp thu, chinh lý dự án Luật Thủy sản (sửa đổi) trước khi trình Quốc hội trong kỳ họp thứ 3 tới đây.
Về quy định đối với lực lượng kiểm ngư, khi thảo luận có ý kiến cho rằng không nên thành lập lực lượng kiểm ngư ở các địa phương mà thành lập kiểm ngư theo vùng. Tuy nhiên, ông Võ Trọng Việt phân tích, lực lượng phụ trách vùng là lực lượng chủ lực còn lực lượng gắn với địa phương, gắn với người dân, ngư dân và cấp ủy, chính quyền địa phương phải là lực lượng địa phương thì mới giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhiệm vụ cụ thể gắn với thực tiễn tại địa phương.
"Như thế, dù tăng biên chế, tăng phương tiện thì vẫn nên thành lập lực lượng kiểm ngư địa phương" - ông Việt nêu quan điểm.