Tập đoàn dụng cụ không dây hàng đầu thế giới đẩy mạnh phát triển kinh doanh tại Việt Nam |
Tọa đàm “Huy động nguồn lực xã hội đầu tư cảng hàng không và những bài học kinh nghiệm" có sự tham dự của ông Lê Anh Tuấn - Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Ông Đặng Văn Minh - Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi; Ông Trịnh Xuân Trường - Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai; Ông Nguyễn Văn Phong - Phó chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận; Ông Mai Xuân Liêm - Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa; Ông Nguyễn Hồng Lĩnh - Phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hà Tĩnh. Đại diện các cục, vụ của Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước; đại diện các Sở Giao thông vận tải, Kế hoạch đầu tư các địa phương.
Định hướng phát triển cảng hàng không
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Anh Tuấn cho biết, triển khai Quyết định số 1121/QĐ-TTg ngày 22/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tổ công tác 1121, Bộ Giao thông vận tải đã gửi đề cương “Đề án xã hội hóa đầu tư, khai thác cảng hàng không” tới Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố để tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện Đề án theo nhiệm vụ được giao, làm cơ sở triển khai thu hút nguồn lực đầu tư các cảng hàng không.
Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Lê Anh Tuấn phát biểu |
Thứ trưởng nhận định, trong các lĩnh vực giao thông vận tải, hàng không là lĩnh vực kinh tế vận tải áp dụng kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại với hoạt động mang tính quốc tế cao, gắn liền với an toàn và an ninh, buộc phải hoạt động đồng bộ theo quy trình chặt chẽ. Với hình thành và phát triển hệ thống cảng hàng không của Việt Nam gắn liền với hoạt động quân sự, nên việc quản lý đất đai, quản lý tài sản và mô hình vận hành, khai thác tương đối phức tạp.
Thông qua toạ đàm Thứ trưởng Lê Anh Tuấn mong muốn, các cơ quan, các địa phương, các nhà đầu tư có thêm thông tin, nhận thức về cách thức, trình tự, thủ tục và những thách thức trong quá trình tổ chức thực hiện huy động vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không theo phương thức PPP nhằm đồng hành, chia sẻ với Bộ Giao thông vận tải trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng hàng không trong thời gian tới.
Ông Phạm Hoài Chung - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải thông tin, hiện nay Việt Nam đang khai thác 22 cảng hàng không, được phân bổ tương đối đều cho các vùng miền. Theo ICAO, 86% dân số Việt Nam tiếp cận cảng hàng không trong bán kính 100km, cao hơn mức trung bình của thế giới là 75%. Phần lớn cảng hàng không của Việt Nam có nguồn gốc là sân bay quân sự (trừ Phú Quốc và Vân Đồn).
Hệ thống Cảng hàng không Việt Nam đã trải qua 3 thời kỳ quy hoạch gồm: Quyết định 21/QĐ-TTg Ngày 08/01/2009 quy hoạch đến năm 2020: 26 cảng hàng không, trong đó có 10 cảng hàng không quốc tế. Định hướng đến 2030: 26 cảng hàng không (10 cảng hàng không quốc tế); phát triển một số sân bay như Lai Châu, Cao Bằng, Phan Thiết thành cảng hàng không; Quyết định 236/QĐ-TTg ngày 23/02/2018 (Quy hoạch đến năm 2020; định hướng đến năm 2030). Quy hoạch đến năm 2020: 23 cảng hàng không (10 Cảng hàng không quốc tế). Định hướng đến 2030 có 28 cảng hàng không, trong đó có 13 cảng hàng không quốc tế; Tờ trình 13833/TTr-BGTVT ngày 24/12/2021, quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030: 28 cảng hàng không (14 Cảng hàng không quốc tế). Tầm nhìn đến 2030: 31 cảng hàng không (14 cảng hàng không quốc tế).
Theo ông Phạm Hoài Chung, theo dự thảo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, hệ thống cảng hàng không được quy hoạch theo các tiêu chí: Dự báo nhu cầu vận tải bằng đường hàng không; Điều kiện tự nhiên để bố trí cảng hàng không; Tiềm năng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; Bảo đảm quốc phòng - an ninh cho khu vực; Khả năng phục vụ khẩn nguy cứu trợ; Khoảng cách từ cảng hàng không đến trung tâm đô thị, khoảng cách đến cảng hàng không lân cận.
Về định hướng phát triển, ông Phạm Hoài Chung cho hay, đối với sân bay chuyên dùng phải đảm bảo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội; Các địa phương chủ động quy hoạch vị trí các sân bay chuyên dùng trong quy hoạch tỉnh; Phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng phê duyệt vị trí và địa phương chủ trì huy động nguồn lực để tổ chức thực hiện; Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chuyển sân bay chuyên dùng thành cảng hàng không quốc nội khi sân bay chuyên dùng có nhu cầu khai thác các chuyến bay thường lệ và có cơ sở hạ tầng bảo đảm phục vụ hành khách.
Định hướng Chuyển đổi cảng hàng không quốc nội thành quốc tế: các cảng hàng không quốc nội được khai thác các chuyến bay quốc tế không thường lệ; Để đảm bảo khai thác hiệu quả hệ thống cảng hàng không, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội; Đảm bảo tính linh hoạt và tính mở của quy hoạch, khi các hãng hàng không có nhu cầu mở các chuyến bay quốc tế thường lệ và có cơ sở hạ tầng đảm bảo; Bộ Giao thông vận tải báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển thành cảng hàng không quốc tế.
Định hướng đầu tư cảng hàng không: Phù hợp với Quy hoạch; Phù hợp với chủ trương, định hướng xã hội hoá. Đối với các dự án quy hoạch đầu tư sau năm 2030, nhưng trường hợp các địa phương có nhu cầu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và huy động được nguồn lực, báo cáo Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đầu tư sớm hơn.
Chia sẻ tham luận về “Các công trình kết cấu hạ tầng cảng hàng không, nguồn thu và chi phí”, ông Đào Xuân Hoạch, Trưởng phòng quản lý cảng hàng không, sân bay - Cục Hàng không Việt Nam cho biết, về nguồn thu hàng không, Thông tư số 53/2019/TT-BGTVT ngày 31/12/2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định về mức giá, khung giá một số dịch vụ chuyên ngành hàng không tại cảng hàng không, sân bay.
Tại toạ đàm, các đại biểu khách mời đến từ các cơ quan của Bộ Giao thông vận tải, các bộ ngành liên quan và đại diện nhiều địa phương trên cả nước sẽ chia sẻ thông tin, nhận thức về cách thức, trình tự, thủ tục về đầu tư, khai thác cảng hàng không; chia sẻ kinh nghiệm đầu tư, khai thác cảng hàng không theo phương thức PPP; trao đổi về những khó khăn, vướng mắc và định hướng giải pháp thu hút nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không trong thời gian tới.
Đây là hoạt động quan trọng giúp cho các địa phương nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện Đề án xã hội hóa đầu tư khai thác cảng hàng không của từng địa phương trước khi trình Tổ công tác xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ.
Cần hơn 403.100 tỷ đồng đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không giai đoạn 2021-2030
Đề cập thực trạng đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không giai đoạn 2011-2020, ông Nguyễn Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch đầu tư (Bộ Giao thông vận tải) cho biết, trong hơn 10 năm vừa qua, ngành hàng không Việt Nam ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc: Tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 18%; Phát triển nhanh thứ 5 thế giới và nhanh nhất Đông Nam Á (theo báo cáo của Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế - IATA).
Về nguồn vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không, ông Nguyễn Anh Dũng cho biết, giai đoạn 2011-2020 khoảng 95.020 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước là 12,5% và vốn ngoài ngân sách nhà nước 87,5%); chiếm khoảng 9,2% toàn ngành, đạt khoảng 60% nhu cầu. Đánh giá nhu cầu vốn đầu tư lớn, trong khi đó nguồn lực ACV, ngân sách nhà nước còn hạn chế, dẫn tới bị quá tải tại một số cảng hàng không lớn như: Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Tân Sơn Nhất.
Đề cập vấn đề huy động nguồn vốn đầu tư, ông Dũng nêu một số tồn tại như: hiện nay ACV quản lý phần lớn cảng hàng không , về lâu dài sẽ dẫn tới áp lực lên nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, hạn chế khả năng huy động nguồn vốn xã hội, chưa phát huy được tính chủ động, nguồn lực của các địa phương và khả năng quản trị của nhà đầu tư. Đối với các cảng hàng không mới, phương án tài chính khi đầu tư theo phương thức PPP thường khó hấp dẫn nhà đầu tư do thời gian hoàn vốn kéo dài (trung bình từ 40-50 năm), cần sự hỗ trợ rất lớn của Nhà nước.
Đối với các cảng hàng không do ACV đang khai thác, có một số khó khăn vướng mắc khi thực hiện huy động vốn đầu tư như: Đầu tư công trình trên đất và tài sản do quốc phòng quản lý; Xử lý tài sản của ACV, tài sản do quân sự quản lý; Lựa chọn hình thức đầu tư: (i) Hình thức chuyển nhượng có thời hạn quyền khai thác kết cấu hạ tầng gắn với đầu tư, phát triển hay (ii) Hình thức sử dụng tài sản KCHT tham gia dự án PPP.
Về nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không giai đoạn 2021-2030, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch đầu tư cho biết, theo Quy hoạch là khoảng 403.106 tỷ đồng (trừ các công trình do VATM đầu tư). Theo kế hoạch, ACV cân đối được khoảng 265.150 tỷ đồng; Bộ Giao thông vận tải cân đối được 9.841 tỷ đồng. Theo đó, cần huy động thêm khoảng 128.115 tỷ đồng.
Ông Nguyễn Anh Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch đầu tư cho rằng, thực tế nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không giai đoạn 2021-2030 mới chỉ tính cho 28 cảng hàng không được quy hoạch là khoảng 403.106 tỷ đồng. Chúng ta cần huy động thêm 128 nghìn tỷ. Hiện nay, nhiều địa phương đang muốn đề xuất quy hoạch cảng hàng không, sân bay chuyên dùng. Như vậy sẽ cần thêm nhiều nguồn lực nữa. Các hợp đồng BOT kéo dài không chỉ trong 10 năm mà có thể là 20 - 25 năm. Giai đoạn 2030 - 2040 vẫn phải tiếp tục huy động nguồn lực, mới đáp ứng được quy hoạch dự kiến.
Có thể nói, trong hơn mười năm qua, ngành hàng không Việt Nam ghi nhận sự tăng trưởng vượt bậc, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Không tính đến thời gian bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, tăng trưởng bình quân 10 năm gần đây của ngành hàng không Việt Nam khoảng 18%; thị trường hàng không phát triển nhanh thứ 5 thế giới và nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến của các chuyên gia cho rằng, việc tăng trưởng vận tải hàng không đã và đang tạo áp lực lớn lên kết cấu hạ tầng hàng không, đòi hỏi Chính phủ có các quyết sách tìm nguồn lực đầu tư, khai thác các cảng hàng không, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội.
Theo dự thảo kết quả quy hoạch cảng hàng không, sân bay thời kỳ 2021, tầm nhìn đến 2050 sẽ có 14 cảng hàng không quốc tế, gồm: Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc. 14 cảng hàng không quốc nội, gồm: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo. 14 cảng hàng không quốc tế, gồm: Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc. 17 cảng hàng không quốc nội, gồm: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Cao Bằng, Cát Bi, và cảng hàng không thứ 2 phía Đông Nam Thủ đô Hà Nội. |