Giảm thuế theo RCEP: Cơ hội hay thách thức đối với xuất khẩu của ASEAN?
Trải qua nhiều vòng đàm phán kể từ năm 2012, giữa 10 quốc gia thành viên của ASEAN và 6 đối tác đối thoại, đó là Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Vào tháng 11/2019, việc Ấn Độ rút khỏi vòng đàm phán đã làm giảm số lượng quốc gia đàm phán RCEP từ 16 xuống còn 15 quốc gia. Tuy nhiên, RCEP vẫn là FTA lớn nhất trên thế giới vì có thị trường khổng lồ với 24,8 nghìn tỷ USD và hơn 2,3 tỷ dân.
Được ký kết vào cuối năm 2020, hiệp định sẽ có hiệu lực khi có ít nhất 6 nước ASEAN và 3 nước đối tác hoàn tất thủ tục phê chuẩn trong nước. Theo lộ trình cam kết trong RCEP, lộ trình tự do hóa thuế quan giữa các nước thành viên được thực hiện trong vòng 20 năm và việc cắt giảm thuế quan theo RCEP có khả năng làm giảm xuất khẩu của ASEAN vì sẽ làm xói mòn các ưu đãi thương mại của ASEAN mà các đối tác FTA hiện có cấp. Trong khi RCEP mang lại cơ hội tiếp cận quy mô thị trường lớn hơn, cũng đồng thời có khả năng tạo ra tác động bất lợi cho xuất khẩu của ASEAN.
Một trong những công cụ chính sách thương mại quan trọng của thỏa thuận này là xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu giữa các thành viên. Thông thường, việc xóa bỏ thuế quan được kỳ vọng sẽ tăng xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh của ASEAN, việc xóa bỏ thuế quan theo RCEP có nguy cơ làm xói mòn các ưu đãi thương mại trong ASEAN vì RCEP sẽ chồng chéo với nhiều FTA ASEAN khác.
Tất cả các nước ASEAN đều đã có FTA với tất cả các đối tác thương mại lớn, một phần là do đã trở thành thành viên của Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA), các FTA ASEAN + 1 với từng đối tác đối thoại và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), mà còn do một số trong số đó có các FTA song phương với nhau như FTA Nhật Bản - Singapore, FTA Malaysia - Australia, FTA Nhật Bản - Thái Lan,... Do đó, tầm quan trọng của RCEP như là điểm đến xuất khẩu cho các nước ASEAN bị hạn chế.
Sự xói mòn các ưu đãi thương mại của ASEAN xảy ra khi các nước ASEAN phải đối mặt với sự suy giảm lợi thế cạnh tranh mà một số nhà xuất khẩu được hưởng ở thị trường nước ngoài do đối xử thương mại ưu đãi được cung cấp bởi các FTA giữa các thành viên ASEAN và giữa ASEAN với tư cách là một nhóm và các đối tác đối thoại của họ. Nhưng các nhà xuất khẩu ASEAN sẽ thấy lợi ích của các FTA này bị giảm đi do việc mở rộng các ưu đãi để bao gồm các quốc gia bổ sung của RCEP. Việc loại bỏ thuế quan cao hơn theo RCEP sẽ dẫn đến xói mòn ưu đãi lớn hơn và do đó làm giảm xuất khẩu trong ASEAN.
Phân tích 5 điểm đến xuất khẩu hàng đầu của 10 nước ASEAN sử dụng dữ liệu xuất khẩu năm 2018 từ Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) cho thấy, các nước ASEAN sẽ có mức độ thiệt hại xuất khẩu khác nhau do xói mòn ưu đãi. Các quốc gia bị thiệt hại xuất khẩu tương đối lớn bao gồm Brunei Darussalam, Indonesia, Lào, Myanmar, Malaysia, Singapore và Thái Lan, là những quốc gia có một số trong năm thị trường xuất khẩu hàng đầu trong ASEAN hoặc các đối tác đối thoại. Ngược lại, Campuchia, Philippines và Việt Nam có khả năng ít bị thiệt hại hơn về xuất khẩu vì chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ, quốc gia không thuộc RCEP.
Các nhà phân tích xem xét hai kịch bản để chứng minh sự xói mòn ưu tiên làm giảm xuất khẩu của ASEAN như thế nào bằng cách sử dụng các FTA ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Nhật Bản và ASEAN - Hàn Quốc làm ví dụ. Trước khi RCEP hình thành, chỉ có các nước ASEAN được ưu đãi tiếp cận thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc theo các FTA. Các nhà xuất khẩu từ ASEAN được hưởng mức thuế suất ưu đãi thấp do ba nước này cấp, trong khi các nhà xuất khẩu từ ba nước cũng được hưởng mức thuế suất ưu đãi thấp do các nước ASEAN cấp.
Trong khi đó, hàng hóa xuất khẩu từ Nhật Bản sang Trung Quốc hoặc ngược lại phải đối mặt với thuế suất tối huệ quốc (MFN), thường cao hơn thuế suất ưu đãi. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Nhật Bản. Sau khi RCEP hình thành, khả năng tiếp cận ưu đãi của ASEAN đối với thị trường của các đối tác đối thoại sẽ giảm vì RCEP sẽ đặt ra cùng một ngưỡng cắt giảm thuế quan đối với hàng nhập khẩu giữa các đối tác. Ngoài ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ có cơ hội tiếp cận ưu đãi với thị trường của nhau.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với Nhật Bản, quốc gia chưa hình thành bất kỳ FTA nào với Trung Quốc và Hàn Quốc. Năm 2018, điểm đến xuất khẩu hàng đầu của Nhật Bản là Trung Quốc, tiếp theo là Mỹ và Hàn Quốc. Việc cắt giảm thuế quan theo RCEP sẽ tạo ra dòng chảy thương mại giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc, và ở một mức độ nào đó sẽ làm chuyển hướng dòng chảy thương mại từ các nước ASEAN. Đối với các nước ASEAN, khả năng tiếp cận ưu đãi của họ đối với thị trường của các đối tác RCEP sẽ giảm do một phần thị phần sẽ bị chiếm bởi việc mở rộng thương mại ở các đối tác đối thoại.
Tóm lại, việc cắt giảm thuế quan theo RCEP có khả năng làm xói mòn các ưu đãi thương mại trong ASEAN vì RCEP xuất hiện trong môi trường có nhiều FTA chồng chéo. Các ưu đãi thương mại bị xói mòn có nghĩa là các nhà xuất khẩu trong ASEAN có khả năng phải đối mặt với nhu cầu thấp hơn đối với hàng hóa của họ tại các thị trường do các đối tác đối thoại cấp theo các FTA ASEAN + 1. Do không có FTA giữa Nhật Bản và các đối tác thương mại chính, RCEP có khả năng tăng cường dòng chảy thương mại giữa các đối tác đối thoại hơn là kích thích xuất khẩu nhiều hơn từ ASEAN. Hàm ý chính của việc cắt giảm thuế quan là các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu trong ASEAN sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn với các doanh nghiệp nước ngoài trong các đối tác đối thoại để duy trì thị phần.
Tác động bất lợi của việc cắt giảm thuế quan được xem xét ở đây không nhất thiết có nghĩa là ASEAN không còn khả năng hưởng lợi từ RCEP. Nếu RCEP đạt được mục tiêu vượt xa các đợt cắt giảm thuế quan này, thì có thể tổn thất xuất khẩu tiềm ẩn do xói mòn ưu đãi sẽ là tác động ít quan trọng nhất. Giải quyết các vấn đề như hàng rào phi thuế quan, quyền sở hữu trí tuệ và thương mại điện tử, trong số những vấn đề khác, sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh và kích thích sự đổi mới của các doanh nghiệp ASEAN, những lợi ích có thể sẽ lớn hơn thiệt hại về xuất khẩu tiềm năng của việc cắt giảm thuế quan.