Chính sách hỗ trợ tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa còn nhiều hạn chế
Nguy cơ từ rác thải nhựa
Chia sẻ tại hội thảo, GS.TS Nguyễn Hữu Dũng - Viện trưởng Viện Môi trường đô thị và Công nghiệp Việt Nam - nhấn mạnh: Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ từ rác thải nhựa. Lượng rác thải nhựa gia tăng nhanh chóng, năm 2014 khoảng 1,8 triệu tấn/năm, 2016 khoảng 2 triệu tấn thì hiện nay khoảng 3,27 triệu tấn/năm. Trung bình mỗi hộ gia đình sử dụng khoảng 1kg túi nilon/tháng, riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn rác thải nhựa và túi nilon.
Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ từ rác thải nhựa |
Với lượng rác thải khổng lồ như vậy nhưng việc phân loại, thu hồi, tái chế và xử lý rác thải nhựa còn rất hạn chế. Ước tính, mới có khoảng 11-12% lượng chất thải nhựa, túi nilon được xử lý, tái chế, số còn lại chủ yếu là chôn lấp, đốt và thải ra ngoài môi trường. Đối với nhựa phát sinh từ sinh hoạt, tiêu dùng thì hầu hết chưa được phân loại tại nguồn. Chất thải nhựa không có giá trị hoặc có giá trị tái chế thấp (hộp xốp các loại, ống hút nhựa...) bị thải ra môi trường hoặc đưa vào bãi rác, lò đốt. Việc xử lý chất thải như vậy đã, đang gây ô nhiễm môi trường, để lại hậu quả khó lường đối với sức khỏe con người và vạn vật trên trái đất.
Nói về khó khăn trong công tác thu gom rác thải nhựa hiện nay, ông Phạm Văn Đức - Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội - cho biết: Đối với rác sinh hoạt thông thường nói chung, hiện tại công tác thu gom đang gặp khó khăn như thiếu cở cơ sở hạ tầng dành cho công tác duy trì vệ sinh môi trường (trạm trung chuyển, điểm cẩu…). Chính quyền chưa thực hiện xử phạt các hành vi vi phạm về vệ sinh môi trường trên địa bàn theo Nghị định 155 NĐ-CP, trong khi nhiều người dân vẫn duy trì thói quen cố hữu bỏ rác không theo thời gian, địa điểm quy định, không phân loại...
Với công tác thu gom chất thải nhựa nói riêng, do đặc thù rác thải nhựa thường cồng kềnh, kho vận chuyển và lưu trữ hạn chế; lực lượng thu gom hiện đang hoạt động tự phát, phân tán, cộng với chưa có kinh phí trong thực hiện phân loại rác tại nguồn cũng như gói hỗ trợ ưu đãi trong đầu tư hệ thống tái chế... khiến cho công tác thu gom, xử lý rác thải nhựa càng khó khăn.
Hoàn thiện chính sách về quản lý
Những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong bảo vệ môi trường cũng như ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, như Chỉ thị số 33/CT-TTg về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; Quyết định số 1746/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030. Tuy nhiên, theo PGS. TS. Nguyễn Lê Tuấn - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo, Tổng cục Biển và Hải Đảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường) - mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất thải ngày càng được hoàn thiện, song vẫn chưa đầy đủ hoặc còn những bất cập nhất định. Chất thải nhựa là loại chất thải chiếm lượng lớn trong tổng số lượng chất thải phát sinh, có những tác động rất nguy hại tới môi trường, nhưng chưa có các quy định cụ thể để quản lý loại chất thải này, đặc biệt là loại nhựa sử dụng một lần.
Hệ thống chính sách hỗ trợ tái sử dụng, tái chế chất thải rắn trong đó có chất thải nhựa cơ bản đã được xây dựng, bao gồm: Chính sách phân loại chất thải rắn tại nguồn tạo nguồn nguyên liệu đầu vào; chính sách hỗ trợ sản xuất (ưu đãi mặt bằng, vay vốn, giảm thuế,...); chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm (trợ giá và khuyến khích tiêu dùng sản phẩm tái chế)… nhưng hệ thống chính sách này vẫn chưa đầy đủ và còn những bất cập.
Các diễn giả tham gia buổi tọa đàm |
Để khắc phục những bất cập hiện nay, GS.TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, Việt Nam cần có lộ trình, giải pháp thu hút đầu tư và công nghệ các lĩnh vực: Giảm thiểu, phân loại tại nguồn, tăng cường khả năng tái sử dụng, tái chế các thành phần rác thải nhựa; sử dụng vật liệu thay thế túi nilon và sản phẩm nhựa dùng một lần; công nghệ tái chế rác thải túi nilon, rác thải nhựa...
Một trong những giải pháp được nhắc đến lâu nay là thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, theo ông Trần Việt Anh - Chủ tịch Hiệp hội Nhựa TP. Hồ Chí Minh - để đạt được hiệu quả cần sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường, quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất, nhà phân phối trong việc thu hồi, phân loại và tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; quản lý dự án theo vòng đời, thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường tương đương với nhóm các nước tiên tiến trong khu vực. Song hành cùng với đó, đẩy nhanh việc hoàn thiện và ban hành cơ chế chính sách ưu đãi, hỗ trợ thúc đẩy công nghiệp môi trường, trong đó có công nghiệp tái chế. Ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn về công nghệ, thúc đẩy phát triển thị trường trao đổi sản phẩm phụ, sản phẩm thải bỏ để kết nối chuỗi giữa thải bỏ - tái chế - tái sử dụng để rác thải, chất thải trở thành tài nguyên thứ cấp trong hệ thống vòng kín của chu trình sản xuất mới. Đồng thời, xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế chiều sâu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, áp dụng khoa học - công nghệ vào các ngành, đặc biệt là xử lý rác thải để tái tạo nguyên liệu mới. Đổi mới công nghệ là yếu tố quan trọng quyết định thành công khi áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn. Công nghệ mới sẽ giúp việc thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn hiệu quả, giảm thải ô nhiễm, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, tránh khai thác quá mức tài nguyên, đồng thời tạo được cơ hội việc làm mới.
Chia sẻ tại buổi tọa đàm, nhiều diễn giả có kiến nghị: Các cấp có thẩm quyền cần xây dựng cơ chế chính sách để tạo lập thị trường tiêu thụ các loại túi nilon thân thiện môi trường; tăng mức thuế bảo vệ môi trường đối với túi nilon khó phân hủy. Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, từ nâng cao nhận thức đến hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện; ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn về công nghệ, thúc đẩy phát triển thị trường trao đổi sản phẩm phụ, sản phẩm thải bỏ để kết nối chuỗi giữa thải bỏ - tái chế - tái sử dụng để rác thải, chất thải trở thành tài nguyên thứ cấp trong hệ thống vòng kín của chu trình sản xuất mới; tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân về phân loại rác thải tại nguồn, tạo điều kiện cho công tác thu gom, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế được thuận lợi và dễ dàng hơn.