Tận dụng EVFTA để củng cố vị thế của Việt Nam trong làn sóng phát triển ASEAN
Hiệp định đánh dấu một bước tiến quan trọng đối với Việt Nam, tạo động lực cho các doanh nghiệp trong nước phát triển khả năng xuất khẩu và tạo động lực để chính phủ Việt Nam tiếp tục cải cách thể chế. EVFTA cũng phản ánh sự thể chế hóa sâu sắc hơn các cơ hội xuất khẩu trong thời gian thương mại toàn cầu bị hạn chế bởi cuộc khủng hoảng Covid-19.
Theo các chuyên gia về chính sách công của Đại học Quốc gia Singapore, EVFTA cung cấp một nền tảng cho Việt Nam để tiếp tục giúp các doanh nghiệp trong nước thâm nhập thị trường EU. Hiệp định giúp liên kết các công ty Việt Nam với các tiêu chuẩn châu Âu về tìm nguồn cung ứng và sản xuất, có khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm và độ tin cậy khi Việt Nam tìm cách củng cố hình ảnh thương hiệu toàn cầu. Việc đáp ứng các tiêu chuẩn sẽ giúp các sản phẩm của Việt Nam cạnh tranh bình đẳng hơn trên các thị trường EU. Dựa trên các tính toán sử dụng dữ liệu từ Tổ chức Thương mại Thế giới, xuất khẩu hàng năm của Việt Nam sang EU đã tăng gấp 10 lần trong thập kỷ qua - từ khoảng 4 tỷ USD năm 2005 lên hơn 41 tỷ USD năm 2018. Tỷ lệ của Việt Nam trong xuất khẩu hàng năm của ASEAN sang EU tăng từ 5% vào năm 2005 đến 26% vào năm 2018. Năm 2018, Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu hàng đầu của ASEAN sang EU. Điều này có nghĩa là tăng trưởng nhanh chóng trong thặng dư thương mại của Việt Nam với EU (từ 1,87 tỷ USD năm 2005 lên hơn 28 tỷ USD năm 2018).
Khối lượng xuất khẩu của Việt Nam sang EU và thặng dư thương mại nhấn mạnh vai trò chiến lược của EVFTA trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam và tạo điều kiện tái cơ cấu công nghiệp bằng cách buộc các công ty phải đa dạng hóa danh mục sản phẩm và đẩy mạnh chuỗi giá trị. Thời điểm hiện tại đòi hỏi Việt Nam phải nắm lấy hai ưu tiên chính, đó là: hội nhập sâu rộng với thị trường EU và biến EVTFA thành động lực cho cải cách trong nước. Để hiện thực hóa tiềm năng đầy đủ của EVFTA, Việt Nam phải giúp các doanh nghiệp trong nước củng cố thị phần EU bằng cách hiểu rõ hơn về thị trường và tiêu chuẩn kinh doanh của EU, nâng cao chất lượng và độ tin cậy của sản phẩm và áp dụng văn hóa đổi mới.
Các nhóm sản phẩm ưu tiên cần được xác định theo tỷ lệ tổng xuất khẩu nội địa của nhóm sản phẩm sang EU, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm sản phẩm sang EU trong ba năm trước đó, tỷ trọng trong tổng xuất khẩu ASEAN của nhóm sản phẩm đối với EU, tiềm năng của nhóm sản phẩm nhằm nâng cao giá trị gia tăng và tăng năng suất lao động và vai trò của nhóm sản phẩm có thể đóng góp trong sự phát triển lâu dài của quan hệ thương mại EU- Việt Nam.
Những hướng dẫn này chỉ ra một số nhóm sản phẩm chiến lược mà Việt Nam có thể nhắm đến trong nỗ lực tăng cường thương mại với EU, bao gồm máy móc và các sản phẩm điện tử, đồ chơi và đồ thể thao, cá và hải sản chưa qua chế biến, giày dép, thiết bị hàng không và thiết bị quang học và y tế. Các sản phẩm máy móc và điện tử, với hiệu suất mạnh mẽ trên tất cả các tiêu chí: 17,8 tỷ USD giá trị xuất khẩu sang EU, chiếm 42,5% trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang EU, tăng trưởng 15,2% từ 2015 đến 2018 và chiếm 38,2% tổng hàng xuất khẩu của ASEAN sang EU. Nhưng các nhóm sản phẩm khác chỉ mạnh về một số tiêu chí. Ví dụ, giày dép là nhóm sản phẩm lớn thứ hai trong giá trị xuất khẩu sang EU (4,86 tỷ USD) và chiếm tỷ trọng chi phối trong xuất khẩu của ASEAN sang EU (64,5%) nhưng mức tăng trưởng trong ba năm qua là dưới 5%.
Những đặc điểm này được chia sẻ bởi các sản phẩm nông nghiệp thô và hầu hết các nhóm sản phẩm thâm dụng lao động. Ví dụ như hàng may mặc không dệt kim, cà phê, trà, gia vị và cá và hải sản chưa qua chế biến. Các chính sách nên hướn tới việc giúp các công ty sản xuất kinh doanh các nhóm sản phẩm đó đầu tư vào công nghệ để tăng giá trị gia tăng, cải cách các mô hình tăng trưởng kinh doanh và tăng cường các kênh phân phối. Tuy nhiên việc mở rộng khối lượng xuất khẩu không phải là một mục tiêu chính. Các nhóm sản phẩm khác có xuất khẩu khiêm tốn nhưng được hưởng sự tăng trưởng nhanh chóng và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc tích hợp Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Ví dụ là thiết bị quang học và y tế và thiết bị hàng không. Các nhóm sản phẩm này phải là mục tiêu hỗ trợ chính sách cho đầu tư và áp dụng các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
EVFTA mang lại các cơ hội chuyển giao chính sách và cơ hội học tập có thể thúc đẩy cải cách trong nước. EU với tư cách là một cơ cấu tổ chức và quản trị đã cung cấp các lộ trình cho các thành viên kém phát triển hơn để nâng cấp các nền tảng phát triển và đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về tư cách thành viên. Ireland, Estonia và Ba Lan đã sử dụng các cơ chế thành viên để tăng tốc quản trị và cải cách kinh tế. Việt Nam nên coi EVFTA là một nhiệm vụ để cải thiện các điều kiện phát triển. Bước đầu tiên là xác định mức độ mà Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về các biện pháp phát triển chính như an toàn sản phẩm, bảo vệ môi trường, minh bạch, hiệu quả chính sách và quản lý nền kinh tế kỹ thuật số. Những phát hiện đó sẽ cung cấp một lộ trình chiến lược để giúp Việt Nam bắt kịp các tiêu chuẩn của EU trong vòng vài thập kỷ tới. Đây là một cách thiết thực và có thể đạt được để tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển sang phát triển toàn diện vào năm 2045.
Khả năng thúc đẩy chương trình nghị sự phát triển quốc gia không chỉ nằm ở ý chí nắm bắt hiệu quả các cơ hội thị trường toàn cầu mà còn ở khả năng sử dụng lợi ích thu được từ những cơ hội đó để nâng cấp công nghiệp và chuyển đổi thể chế. EVFTA là cơ hội để Việt Nam tạo dấu ấn lịch sử bằng cách thiết lập vị thế như một nhà tiên phong về kinh tế và phát triển trong làn sóng các quốc gia ASEAN đang trỗi dậy.