Giám sát Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
Làm rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, người đứng đầu
Chiều 12/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Kế hoạch giám sát và đề cương báo cáo của Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông từ năm 2009 đến hết năm 2023.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông từ năm 2009 đến hết năm 2023 |
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, mục đích giám sát nhằm đánh giá khách quan, toàn diện trách nhiệm của Chính phủ trong việc chỉ đạo, phân công các Bộ, ngành, địa phương thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông từ năm 2009 đến hết năm 2023; công tác xây dựng, ban hành văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Đồng thời, làm rõ kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân (khách quan, chủ quan) của tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực hiện và sự phối hợp thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Bên cạnh đó, làm rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị và ý thức chấp hành pháp luật của các cấp, các ngành thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Rút ra bài học kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông;
Phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền khắc phục tồn tại, hạn chế; điều chỉnh, xử lý những vướng mắc trong quá trình thực hiện; đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông giai đoạn tiếp theo.
Về nội dung giám sát gồm: Việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước về bảo đảm trật tự an toàn giao thông và các hoạt động liên quan đến bảo đảm trật tự an toàn giao thông (trọng tâm là các quy định về bảo đảm trật tự an toàn giao thông, các chính sách đầu tư cho giao thông, Luật Giao thông đường bộ, Luật Đường sắt, Luật Đường thủy nội địa, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Bộ luật Hàng hải Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan).
Việc ban hành và triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; rà soát các quy định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông, trọng tâm là các văn bản dưới Luật của Chính phủ và các bộ ngành; những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Thực trạng công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, phối hợp và tổ chức thực hiện của Chính phủ, các Bộ, cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.
Tình hình vi phạm, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; công tác phối hợp giữa các Bộ, địa phương trong bảo đảm trật tự an toàn giao thông; hoạt động hợp tác quốc tế về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; nguồn lực ngân sách bảo đảm trật tự an toàn giao thông; trách nhiệm của các tập thể và cá nhân có liên quan.
Xem xét, đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông; tập trung làm rõ những hạn chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc; xác định nguyên nhân của hạn chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc và đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong thời gian tới.
Bộ, ngành nào bị giám sát về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông?
Theo ông Lê Tấn Tới, về đối tượng giám sát gồm: Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; trong đó trọng điểm là Bộ Công an, Bộ Giao thông Vận tải (Cục Cảnh sát giao thông, Cục Đường bộ Việt Nam, Cục Đường sắt Việt Nam, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam), Bộ Quốc phòng và Bộ Tư pháp;
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có 12 địa phương Đoàn công tác đến làm việc, gồm: Thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Bắc Ninh, Hải Dương, Thanh Hóa, Thừa Thiên - Huế, thành phố Đà Nẵng, Đắc Lắc, Khánh Hòa, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ;
Cùng với đó, khảo sát tại một số cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp có liên quan: Tổng Công ty hàng không Việt Nam, Tổng Công ty Cảng Việt Nam, Tổng Công ty quản lý bay Việt Nam, Hãng hàng không Vietjet Air, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Xí nghiệp xe buýt Hà Nội, Trung tâm Quản lý Giao thông công cộng thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Điều hành đèn tín hiệu giao thông và Vận tải công cộng thành phố Đà Nẵng; một số doanh nghiệp đường thủy nội địa, hàng hải; một số hãng taxi; một số trường giáo dục phổ thông...
Về phạm vi giám sát, giám sát đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên phạm vi cả nước. Thời gian giám sát về lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ: từ ngày 1/1/2009 đến hết ngày 31/12/2023; về lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt từ ngày 1/1/2019 đến hết ngày 31/12/2023.
Về lĩnh vực bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa từ ngày 1/1/2015 đến hết ngày 31/12/2023; về bảo đảm an toàn hàng không, an ninh hàng không dân dụng: Từ ngày 1/1/2016 đến hết ngày 31/12/2023; về lĩnh vực an toàn hàng hải, an ninh hàng hải: Từ ngày 1/1/2018 đến hết ngày 31/12/2023.