Giá cà phê hôm nay 9/7/2024: Giá cà phê đồng loạt tăng
Giá cà phê thế giớirạng sáng ngày 9/7/2024, lúc 4h30 được cập nhật trên sàn giao dịch Sở Giao dịch hàng hoá Việt Nam MXV (kênh duy nhất ở Việt Nam cập nhật liên tục liên kết với các sàn giao dịch trên thế giới).
Giá cà phê trực tuyến hôm nay của ba sàn giao dịch cà phê kỳ hạn chính ICE Futures Europe, ICE Futures US và B3 Brazil được Y5Cafe cập nhật liên tục trong suốt thời gian giao dịch của sàn, được trang www.giacaphe.com cập nhật như sau:
Giá cà phê hôm nay 9/7/2024: Giá cà phê Robusta trên sàn London. (Ảnh: Chụp màn hình giacaphe.com |
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 9/7/2024 lúc 4h30 tăng ở mức 3.793 - 4.315 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 4.315 USD/tấn (tăng 130 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 4.135 USD/tấn (tăng 113 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 1/2024 là 3.940 USD/tấn (tăng 92 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 3.793 USD/tấn (tăng 71 USD/tấn).
Giá cà phê hôm nay 9/7/2024: Giá cà phê Arabica New York (Ảnh: Chụp màn hình giacaphe.com |
Giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 9/7/2024 mức tăng từ 224.60 - 231.70 cent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 231.70 cent/lb (tăng 1.20%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 229.40 cent/lb tăng 1.26%); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 226.80 cent/lb (tăng 1.07 %) và kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 224.60 cent/lb (tăng 1.15%).
Giá cà phê hôm nay 9/7/2024: Giá cà phê Arabica Brazil. (Ảnh: Chụp màn hình giacaphe.com) |
Giá cà phê Arabica Brazil sáng ngày 9/7/2024 tăng mạnh. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 7/2024 là 289.10USD/tấn (tăng 2.03%); kỳ giao hàng tháng 9/2024 là 283.00 USD/tấn (tăng 1.42 %); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 280.90 USD/tấn (tăng 2.24 %) và giao hàng tháng 3/2025 là 272.70 USD/tấn (tăng 2.29%).
Cà phê Robusta giao dịch trên sàn ICE Futures Europe (sàn London) mở cửa lúc 16h00 và đóng cửa lúc 00h30 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Cà phê Arabica trên sàn ICE Futures US (sàn New York) mở cửa lúc 16h15 và đóng cửa lúc 01h30 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Đối với cà phê Arabica giao dịch trên sàn B3 Brazil sẽ mở cửa từ 19h00 - 02h35 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Giá cà phê trong nướcđược cập nhật lúc 4h30 phút ngày 9/7/2024 như sau, theo trang www.giacaphe.com, giá cà phê trong nước nằm trong khoảng 123.500-124.600 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 124.300 đồng/kg, giá mua cao nhất tại tỉnh Đắk Nông 124.600 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 124.100 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 124.000 đồng/kg; Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 124.100 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 124.600 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 123.500 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nayngày 9/7 tại tỉnh Đắk Lắk; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 124.100 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 124.000 đồng/kg.
Đồng real Brazil mất giá đến 5,87% trong tháng 6 so với đồng USD của Mỹ, cũng như lo ngại về sản lượng cà phê của Brazil sụt giảm, khiến các nhà rang xay đẩy mạnh thu mua dự trữ, qua đó giúp giá cà phê Arabica liên tục tăng dù đang trong vụ thu hoạch rộ.
Tính đến đầu tháng 7/2024, vụ thu hoạch cà phê niên vụ 2024/25 của Brazil đã hoàn thành 58%, tăng so với mức 52% cùng thời điểm năm 2023 và tăng so với mức trung bình 5 năm ở 54%.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 902.000 tấn, giảm 10,6% so với cùng kỳ năm 2023.
Nguồn cung cà phê của Việt Nam thiếu hụt, thị trường phải chờ đợi vụ thu hoạch mới bắt đầu vào tháng 10 tới. Nhiều chuyên gia ngành hàng nhận định giá cà phê Robusta của Việt Nam lẫn trên thị trường quốc tế sẽ tiếp tục ở mức cao trong thời điểm này.
Mặc dù khu vực Tây Nguyên - vùng trồng cà phê chính của Việt Nam đã bước vào mùa mưa, nhưng giới đầu tư quốc tế hiện cho rằng lượng mưa vẫn đang thấp hơn mức thông thường các năm trước, sẽ tác động tiêu cực đến sinh trưởng của cây cà phê.
Đại diện một số doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nhân sống lớn tại khu vực Tây Nguyên cho biết, lượng hàng trong kho hiện chỉ đủ bán đến tháng 6/2024 này, không thể kéo đến vụ thu hoạch mới. Đồng thời, nhận định sản lượng cà phê niên vụ 2024/25 chắc chắn sẽ không bằng niên vụ trước.
Dự báo sản lượng cà phê Robusta của Việt Nam niên vụ 2024/25 sẽ chỉ đạt từ 1,3 – 1,35 triệu tấn, giảm tới 20% so với niên vụ hiện tại. Tuy nhiên, con số này cao hơn đáng kể so với các dự báo của một số tổ chức và chuyên gia ngành hàng đưa ra trước đây.
Tồn kho cà phê tại Việt Nam vẫn khan hiếm, dẫn đến nguồn cung toàn cầu bị thắt chặt và giá dao động ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước.
Trong một báo cáo định kỳ 6 tháng, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho biết, sản lượng cà phê trên toàn cầu trong vụ mùa mới (bắt đầu vào tháng 10 tới ở hầu hết các quốc gia) sẽ tăng 7 triệu bao, tương dương 4,1% so với vụ hiện tại.
Theo USDA, tổng sản lượng cà phê toàn cầu sẽ đạt 176,23 triệu bao (loại 60kg), tăng lên từ mức 169,18 triệu bao trước đó, chủ yếu do sản lượng cao hơn từ nước trồng hàng đầu Brazil và sự hồi phục sản lượng ở Indonesia sau mùa vụ ảm đạm hồi năm ngoái bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh.
USDA dự kiến tiêu thụ cà phê toàn cầu sẽ tăng 3,1 triệu bao lên mức 170,6 triệu bao, đồng thời cho biết thêm, xuất khẩu từ các nước sản xuất cà phê chủ chốt sang các nước không sản xuất sẽ tăng 3,6 triệu bao lên mức 123,1 triệu bao.
Sản xuất cà phê toàn cầu từ các quốc gia nằm ở vùng nhiệt đới, trong khi phần lớn lượng tiêu thụ diễn ra ở Bắc bán cầu với Mỹ và Liên minh châu Âu là điểm đến chính.
USDA cho biết, sản lượng cà phê của Brazil dự kiến tăng 3,6 triệu bao, trong khi sản lượng của Indonesia tăng 2,8 triệu bao. Sản lượng của Việt Nam – nước trồng lớn thứ hai thế giới về cơ bản là ổn định.
Với những thay đổi này, USDA ước tính tồn kho cuối kỳ toàn cầu năm 2024/25 đạt 25,78 triệu bao, tăng từ mức thấp nhất trong 5 năm ở 23,93 triệu bao trong năm 2023/24.
Thông tin mang tính tham khảo. Giá có thể thay đổi tùy theo từng địa phương.