Cuộc cách mạng khai sinh nền dân chủ
Như lẽ đương nhiên, thành quả trước tiên của các cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Bản Tuyên ngôn Độc lập: “...Trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập”.
Cách mạng tháng Tám 1945 được biểu hiện bằng cuộc nổi dậy của toàn dân trên khắp dải đất của Tổ quốc Việt Nam- vốn bị chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp cắt làm 3 kỳ- mang ý nghĩa to lớn khi nền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia Việt Nam được phục hồi. Nền thống nhất ấy là di sản của tổ tiên qua bao đời mở mang và xây đắp. Dân tộc Việt Nam đã phải chấp nhận một cuộc chiến dài 30 năm mới giành lại non sông trọn vẹn sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1975). Rồi phải kiên cường đấu tranh hơn một thập kỷ tiếp theo mới thực sự vượt qua được những thử thách to lớn đối với sự nghiệp bảo toàn nền thống nhất và chủ quyền đối với lãnh thổ quốc gia.
Có nhà nghiên cứu đặt câu hỏi: Vì sao Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng cộng sản đã từng sống trên đất nước Xô viết, đã từng chứng kiến các phong trào Xô viết ở Trung Hoa, khi nắm quyền trong tay lại không lựa chọn một thể chế Xô viết, lại chấp nhận một thể chế có thể nói là tiến bộ và phổ quát nhất bắt nguồn từ nền chính trị phương Tây? Nguyên lý về một nhà nước “của dân- do dân- vì dân” của Hoa Kỳ tạo nên nền tảng của một thiết chế nhà nước dân chủ hiện đại và được phương Đông hóa với Chủ nghĩa Tam Dân (Dân tộc- Độc lập; Dân quyền- Tự do và Dân sinh- Hạnh phúc) đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn như một mô hình căn bản của nền chính trị hiện đại.
Cuộc cách mạng khẳng định “quyền con người”
Ai cũng biết, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Việt Nam được mở đầu bằng hai đoạn trích từ hai bản tuyên ngôn bất hủ của Cách mạng Hoa Kỳ và Pháp, nêu rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc” (Hoa Kỳ) và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Pháp).
Trích những “lẽ phải không ai chối cãi được” ấy, bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ lên án chế độ phát xít- thực dân đã tước đoạt những quyền con người của nhân dân Việt Nam, mà còn xác nhận rằng, quyền của con người chính là nền tảng của quyền một dân tộc.
“Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”- người đứng đầu nhà nước Việt Nam đã từng nói như vậy trong phiên họp đầu tiên của nội các độc lập. Vị Chủ tịch nước bộc bạch: “Chúng ta vừa học vừa làm. Chắc rằng chúng ta sẽ phạm khuyết điểm, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa, chúng ta có can đảm sửa chữa khuyết điểm. Với lòng yêu nước và yêu nhân dân sâu sắc, tôi chắc chúng ta sẽ thành công”.
Và cũng ngay trong phiên họp đầu tiên này, 1 trong 6 nhiệm vụ được vị Chủ tịch của nhà nước Việt Nam mới tròn một ngày tuổi ấn định: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Chỉ 5 tháng sau ngày Tuyên ngôn độc lập, ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu đã được tiến hành. Ngày 2/3/1946, phiên họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được triệu tập và Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam được ban bố với lời nói đầu: “Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên nguyên tắc dưới đây: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.
Đó chính là nền tảng của khối đoàn kết tạo nên sức mạnh toàn dân cho việc bảo vệ và phát huy những thành tựu của Cách mạng tháng Tám 1945, mà thực tiễn của 7 thập kỷ qua là bằng chứng về sức sống của một chính thể Việt Nam hiện đại và không ngừng đổi mới.
Cuộc cách mạng mở ra công cuộc hội nhập
Ngay khi Chiến tranh Thế giới còn đang diễn ra ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động tiếp cận và đứng vào hàng ngũ Đồng Minh chống phát xít. Sự có mặt từ rất sớm của lực lượng Đồng Minh là những quân nhân Hoa Kỳ trong đơn vị OSS (tình báo chiến lược) bên cạnh lực lượng cách mạng Việt Nam tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh cùng cách ứng xử ngoại giao khôn khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ mang lại cho nhà nước Việt Nam độc lập vị thế là thành viên của mặt trận chống phát xít mà còn muốn đất nước Việt Nam nhanh chóng hội nhập với thế giới hiện đại hình thành trong và sau cuộc Đại chiến thế giới lần thứ Hai.
Đọc văn kiện dưới đây của người đứng đầu Nhà nước Việt Nam gửi cho Bộ truởng Ngoại giao Hoa Kỳ (ngày 22/10/1945) sẽ thấy rõ điều đó: “Nước Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không muốn gây sự với ai”.
Còn trong một văn kiện gửi tới các nước lớn và các thành viên Liên hiệp quốc chỉ ít ngày trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra thông điệp: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng tất cả các sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; c) Nước Việt Nam chấp nhận gia nhập mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc; d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hiệp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân...”.
Cho dù cách mạng Việt Nam còn phải đi tiếp hơn 30 năm chiến tranh để bảo toàn những thành quả của cả cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 và nhiều thử thách trong nhận thức về con đường phát triển của dân tộc trong thế giới hiện đại..., nhưng những gì mở ra từ thời kỳ đổi mới và hội nhập đã và đang diễn ra trong ba thập kỷ tiếp theo cũng như trên bước đường đang đi tới càng làm sáng tỏ ý nghĩa vĩ đại của sự kiện đã được xác lập từ Mùa thu Cách mạng 70 năm về trước. |
Ở London, có một ngôi nhà được gắn tấm biển tròn màu xanh với dòng chữ “Hồ Chí Minh (1890-1969)- vị Chủ tịch sáng lập ra nước Việt Nam hiện đại”, nay là một di tích được ghi nhận ở nước Anh. Ngôi nhà đó được xây dựng lại trên nền của Khách sạn Carlton- nơi vào thời gian đang diễn ra cuộc đại chiến thế giới lần thứ Nhất (1914-1917), Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đang là một người phụ bếp trên hành trình tìm đường cứu nước. Trong ảnh: Tác giả cùng Đoàn Quốc hội Việt Nam tại ngôi nhà di tích ở London dưới tấm biển lưu niệm