Khắc, chạm hồn của núi rừng
Đi cùng với váy áo rực rỡ của người Mông, Dao, Hà Nhì, Sila, nét mềm mại, trang nhã của dân tộc Thái là các món trang sức không thể thiếu bao gồm vòng bạc, xà tích, hoa tai, cúc áo, trâm cài hay những đồng tiền được đánh nhỏ, xâu thành từng dải hay gắn trên cổ tay, vạt áo. Sản phẩm bạc vùng cao đã trở thành một “đặc sản” mà ai đặt chân đến nơi đây cũng muốn kiếm tìm, chiêm ngưỡng. Trải dài từ Đông sang Tây của khu vực miền núi phía Bắc, mỗi dân tộc ở Sơn La, Điện Biên, Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang… lại có bí quyết và đặc điểm riêng khi chế tác đồ bạc trang sức nhưng tất cả đều chung một mục đích: Làm đẹp, trừ tà, cầu an và thể hiện bản sắc dân tộc.
Trang sức bạc vùng cao không chỉ quý, do được làm ra từ bạc nguyên chất mà còn bởi sự độc đáo, không đụng hàng vì được làm thủ công và theo phong cách của mỗi dân tộc. Đơn cử như người Mông ở Sa Pa, nghề chạm khắc bạc ở đây đã vượt qua những nóc nhà nhỏ sau triền núi, để đến nhiều hơn với khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà nghề chạm khắc bạc của người Mông ở Sa Pa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2013. Ông Thào A Chư ở thôn Cát Cát, xã San Sả Hồ (huyện Sa Pa, Lào Cai) là một trong số ít người dân tộc Mông còn giữ lại được nghề chạm bạc truyền thống, nhiều món đồ tinh xảo mang đậm hồn cốt của người Mông như lược, trâm cài, hoa tai, vòng nhẫn… đã ra đời bởi bàn tay thô sần mà khéo léo này.
Ông cho biết, để làm ra một món trang sức bạc đúng “chất” Mông tốn khá nhiều thời gian, đòi hỏi kinh nghiệm của người thợ nhìn sao cho vừa lửa để nung bạc nóng chảy, đủ độ “chín”; rót bạc vào khuôn sao cho vừa tay để không có chỗ dày, chỗ mỏng… Rồi quai búa sao cho đủ độ để miếng bạc dẹt ra theo đúng chủ đích; sử dụng bộ đục chạm hoa văn thật tinh tế để sau từng nhát chạm cỏ cây, hoa lá, các khối hình học dần hiện trên mỗi sản phẩm…
Kết tinh của truyền thống và sáng tạo
Vùng cao níu chân du khách không chỉ bởi chén rượu ngô ngọt mềm môi, những thửa ruộng bậc thang óng vàng màu lúa, những đẵn cơm lam dẻo thơm quyện tinh túy đất trời mà còn bởi những góc chợ phiên bán riêng đồ bạc. Anh Quang- cán bộ ngân hàng, một phượt thủ có tiếng ở Hà Nội chia sẻ: Đồ bạc vùng cao có sức cuốn hút kỳ lạ, nếu đã lạc chân đến những khu chợ bán đồ bạc ở các buổi chợ phiên, du khách không thể không mua một món đồ cho mình. Những bộ Lìn Đao (dây chuyền dài), Lả Kháo (cúc bạc) hay Nhàn Lình (chùm chuông bạc) được chạm trổ hoa văn tinh tế, giá bán không hề rẻ, từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng/món nhưng vẫn rất hút khách.
Về phố, đồ bạc vùng cao không mất đi sự phóng khoáng mà chính nét đơn giản nhưng đầy tinh tế của mỗi sản phẩm đã đem đến vẻ hiện đại, độc đáo. Cũng bởi vậy mà sưu tập đồ bạc vùng cao đã trở thành thú chơi của nhiều người. Cẩm Nguyễn- một dân văn phòng ở Hà Nội nhưng có hàng chục năm đi phượt và cũng ngần ấy năm lưu giữ những món đồ bạc ở những mảnh đất miền núi nơi anh đã từng đi qua, hồ hởi khoe với tôi chiếc dây đeo trang trí được làm từ đồng bạc hoa xòe có gắn những chi tiết nhỏ hình con dao phát nương, nhíp. “Tôi đã lặng người khi nhìn thấy nó trên trang phục của một cậu trai bản và cứ lẽo đẽo đi theo để hỏi mua bằng được. Hơn 2 triệu đồng là số tiền không nhỏ nhưng lại rất đáng để sở hữu một thứ trang sức làm bằng tay tinh xảo như thế này”- Cẩm Nguyễn nói.
Đi nhiều, tìm hiểu nhiều nên Cẩm Nguyễn khá có kinh nghiệm trong việc đánh giá các món đồ trang sức bạc. Trong cả trăm món đồ được mua về, anh nhớ rõ xuất xứ của từng sản phẩm, phân biệt rõ bạc của người Mông với người Thái, của dân tộc Hà Nhì với người Dao … Cũng là bễ thổi, kéo cắt, kìm vặn, búa đập, dao chạm, bàn kéo sợi, panh gắp, đe gỗ, đe sắt, nồi đun, than gỗ… nhưng từ kinh nghiệm truyền đời của mỗi gia đình, làng bản thì món đồ bạc lại mang hồn cốt khác nhau. Cẩm Nguyễn kể, nếu như đồ bạc của người Mông chỉ là những đường nét chạm khắc đơn giản, hình học, của người Thái tinh tế hơn với hoa và bướm thì đồ bạc của người Dao ở Cao Bằng có thể xem là “tinh hoa đẳng cấp” của trang sức bạc. Chỉ một miếng bạc trang trí nhỏ bằng nửa bàn tay mà người nghệ nhân đã khắc lên đó đủ cả hoa lá, mây trời với hình khối cân đối, hài hòa từng đường nét, chi tiết. Không chỉ khác về kiểu dáng, hình khối và hoa văn trang trí, mà những món đồ bạc của người Dao còn hút ánh nhìn bởi sự cân đối nhờ thủ pháp xử lý sáng, tối của nguyên liệu bạc. “Đồ bạc của người Dao còn hoàn mĩ ở chỗ công đoạn cuối cùng là đánh bóng bạc được làm rất cẩn thận. Để bạc trắng sáng và nổi lên nhưng hoa văn chạm khắc thì nghệ nhân phải dùng hợp chất của phèn chua được pha chế theo kinh nghiệm. Ở Cao Bằng giờ chỉ còn ít người làm được điều này” - Cẩm Nguyễn trầm ngâm nói.
Đứng cạnh thứ bạc trắng lóa được sản xuất công nghiệp ở dưới xuôi, trang sức bạc vùng cao dường như khiêm nhường hơn như chính sự bình dị của những con người nơi đây. Nhưng, ẩn sâu trong nó là sự kết tinh của truyền thống và sự sáng tạo của mỗi con người, mỗi dân tộc, góp phần làm nên nét đa dạng bản sắc văn hóa của đất nước và con người Việt Nam.
Từ kinh nghiệm làm nghề hàng chục năm, những nghệ nhân chạm bạc vùng cao đã tôi rèn cho mình con mắt của người họa sĩ, sự phóng khoáng, bay bổng của người nghệ sĩ để thu gọn vẻ đẹp của đất trời, rừng núi vào trong mỗi sản phẩm. Trang sức bạc vùng cao, vì thế, đã tạo cho mình chỗ đứng riêng trong dòng chảy văn hóa của mỗi dân tộc. |