Ngày đầu tiên đến sống ở bản, tôi đã được chứng kiến một sự kiện bi tráng khác thường.
Vì có mối quen biết sẵn với mấy chú, bác người Thái ở bản mà bố tôi rủ thêm gia đình hai cô cùng làm ở cơ quan mẹ, dọn đến ở đây theo lệnh sơ tán để tránh đợt máy bay Mỹ bắn phá hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng và miền Bắc cuối năm 1972. Sau một ngày làm việc, có cả sự giúp sức của mấy chú, bác người Thái, ba căn nhà nhỏ của chúng tôi dựng lên trước cửa hang đá đã xong. Một con chó được thịt để làm bữa cơm chung đã bày biện ra ở khoảng đất bằng trước cửa hang khi trời xẩm tối.
Bỗng dưng có tiếng súng kíp nổ liền ba phát. Từ trên cửa hang mọi người xô nhau nhìn xuống. Mấy người đàn bà và trẻ con từ trong bản lao ra đầu con đường dẫn vào cửa rừng để đón một toán đàn ông trai tráng đi từ rừng ra. Một bác người Thái giúp chúng tôi dựng nhà, nói với mọi người:
- Ông Xôm trùm thợ săn của bản đấy... Phải xuống xem thế nào đã.
Câu chuyện sau đó được thuật lại đầy đủ như sau: Ông Xôm và nhóm thợ săn của bản đã theo dấu vết để lần tìm con gấu mấy ngày và gặp nó trong tình huống bất ngờ: Con gấu đột ngột xuất hiện từ một gốc cây rất lớn, ngay trước mặt ông. Ông vội vàng hạ súng ngang tầm bắn thì nó đã lao thẳng vào người ông, đẩy nòng súng lên và ngón tay ông bị bật ra khỏi vòng cò súng. Cuộc vật lộn tay đôi người và gấu không cân sức hàng tiếng đồng hồ. Cả khoảng lưng ông Xôm đã nát bấy bởi những móng sắc và đầu ông, vai ông chi chít những vết cắn sâu hút. Trong nỗ lực cuối cùng, hai tay ông ghì chặt lấy vai con gấu và hàm răng của ông tìm tới nơi động mạch đang chảy dồn dập ở cổ nó. Lấy hết sức bình sinh, ông điên cuồng ngoặm lấy rồi nhay cắn lớp da dày lông lá và chỉ thiếp đi khi thấy như có cả một dòng sông đỏ thẫm, nóng rực tuôn thẳng vào đầu vào ngực mình.
Không ai dám nghĩ là ông Xôm sẽ sống được. Cảm phục người tay không cắn chết gấu dữ, các thầy lang trong vùng đã mang tất cả những thứ cây lá quý mà họ tìm được trong rừng đến phục thuốc. Ông nằm đến hơn một tháng sau thì mở mắt ra nhìn mọi người và hai tháng sau thì ông lần được xuống cầu thang nhà sàn, ném ngô cho gà...
***
Trong hai tháng ấy, khi vượt rừng đi học về, có dịp là tôi lặng lẽ qua nhà ông Xôm, đứng ngoài hàng rào nhìn vào. Rồi có người hỏi: “Mày nhìn gì thế?”. Người hỏi là thằng Hơn, hơn tôi hai tuổi, học lớp bốn trường bản kém tôi hai lớp và tôi thấy nó cũng hay qua nghe ngóng nhà ông Xôm. Tôi trả lời: “Tao muốn vào thăm ông Xôm”. Hơn bảo: “Để tao với mày cùng vào”. Nó dẫn tôi lên sàn, cùng ngồi xuống bên người hùng nằm yên. Tôi rụt rè nắm bàn tay co quắp vết thương mới kịp lên da non.
Hôm ông mở mắt tỉnh dậy, gặp tôi giữa đường, thằng Hơn thông báo. Tôi bảo mình có cặp lương khô, muốn cùng liên hoan với đám bạn của nó vì ông Xôm đã sống lại. Nó gọi đám bạn bản lại chỗ mó nước để cho tôi làm quen. Nó nói với đám bạn:
- Thằng này học giỏi, hay đi thi học sinh giỏi. Cô giáo bảo nó là tấm gương. Tao không thích tấm gương. Nhưng tao thấy nó tốt. Tao nhận nó làm bạn, chúng mày cũng phải thế.
Tôi đã biết thằng Hơn là “thủ lĩnh” của đám trẻ cùng lứa ở bản. Từ đó, tôi được thằng Hơn cho đi cùng trong các chuyến vào rừng, ra suối.
Rừng hấp dẫn và quyến rũ tôi, cho dù mẹ tôi có cảnh báo bao nguy hiểm và chỉ cho phép tôi được đi gần để kiếm củi. Tôi đã học được cách nhóm lửa trong hang sâu, cách kiếm nước uống từ những thân cây nứa cụt ngọn, hay từ những gốc chuối rừng. Tôi cũng đã học được cách tìm phương hướng khi trời tắt nắng bằng cách sờ vào các gốc cây, cách phân biệt lá độc, lá lành, nấm ngon và nấm chết người...
Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ gặp được hổ, báo và gấu, dù tôi và cả bọn đã táo tợn tìm đến chỗ ông Xôm đánh nhau với gấu dữ ngày nào.
***
Sau những ngày mưa dầm dề, nước ở đâu mà dồn về Nậm La nhiều thế. Đây là dịp “vớ bẫm” của chúng tôi. Mỗi chuyến đi rừng chúng tôi phải kiếm cả buổi mới được một gánh củi, rồi còn è cổ gánh từ rừng về. Còn lúc này thì cứ bơi ra, chọn những cây gỗ mình ưng ý mà dìu vào bờ để chẻ ra đun bếp.
Sau khi dìu được kha khá gỗ củi rồi, tôi tiếp tục bơi ra định băng ngang dòng lũ sang tới bờ đối diện để thử sức mình. Đang bơi giữa dòng, tự nhiên như có sức mạnh huyền bí nào đó hút tôi xuống giữa lòng sâu. Càng cố ngoi lên càng bị kéo xuống... Nhanh chóng nhận thấy mình sẽ chết, tôi đờ đẫn và thoáng hiện hình ảnh ông Xôm nghiến hàm răng vào mạch máu nơi cổ con gấu dữ. Trong nỗ lực cuối cùng, tôi lấy hết sức bình sinh để quẫy đạp. Và tôi quơ phải một đầu cây gậy. Cây gậy như bàn tay một vị thần kéo tôi ra khỏi xoáy nước...
Tôi không thể nhớ sau đó mọi chuyện diễn ra như thế nào. Chỉ biết sau đó khoảng một tiếng, tôi đã mặc quần áo ấm, nằm thở và tỉnh táo lại trên bãi cỏ bên dòng lũ hung dữ.
Hóa ra không có thần thánh nào cả. Thần thánh là thằng Hơn. Nó đứng trên bờ và vẫn quan sát tôi. Khi nó thấy tôi đột nhiên mất hút giữa xoáy nước hút xuống thì nhận ra vấn đề nên vội quơ lấy một cây gậy lao ra giữa dòng và kịp cứu tôi thoát chết. Cả bọn đưa tôi lên, thay nhau dốc ngược tôi trên lưng chạy để tôi ộc hết nước ra rồi ủ ấm để tôi hồi sức lại...
- Mày chưa biết cách nhìn những xoáy nước ở suối lũ. Nếu biết thì mày phải tránh, không tránh được thì phải lặn nhanh xuống mà thoát ra. Nó như một cái hố trên đường đi. Không biết cách tránh thì sẽ ngã.
Thằng Hơn nói đầy đủ, khúc triết khác hẳn với cái cách nó nói với mọi người trước đây. Vì ngạc nhiên mà tôi nhớ mãi.
Sau khi Nậm La trong xanh trở lại, tôi cùng với cô bé Cà Thị Hoa cùng ở bản, học lớp năm, tôi thường ghé nhà học và học giỏi lên rất nhanh, được trường cử đi dự trại hè thiếu niên toàn tỉnh ở Mộc Châu. Khi rời trại hè về thì nhà tôi cùng các gia đình đi sơ tán đã trở lại thị xã và bắt đầu một thời kỳ yên bình.
Thằng Hơn ngày ấy đã trở thành một ông già đầy uy tín ở bản. Nó không biết nhiều đêm ở thành phố có một người tỉnh giấc hồi nhớ tuổi thơ và hay nghĩ đến nó. Cuộc đời giống như dòng lũ, giống như con đường, có những xoáy nước, có những cái hố, nếu không biết cách nhìn ra để tránh hoặc sa vào rồi mà không biết cách thoát nhanh ra thì dễ chết lắm. Mày đã dạy tao điều ấy, Hơn ạ!