Tôi cũng đồng tình với ý kiến của bà, bởi khi còn làm Tổng Biên tập báo Doanh nghiệp, tôi cũng đã vài lần gặp gỡ con người đam mê kinh doanh khủng khiếp, giàu có khủng khiếp hồi bấy giờ nhưng cũng đoản mệnh trong một hoàn cảnh khủng khiếp.
Lần ấy, vào một ngày tháng 5/1994, tôi có dịp ngồi nói chuyện với Minh Phụng. Anh ăn mặc bình dị, nói năng khiêm nhường và luôn xưng tên khi chia sẻ. Tôi hỏi: “Anh có thể cho biết tâm trạng thường có sau mỗi buổi sáng ngủ dậy của một ông chủ có trong tay 10 nghìn công nhân?”. Minh Phụng cười có vẻ hơi ngượng ngùng và nhỏ nhẹ nói: “Ông chủ gì đâu anh. Phụng chỉ là người làm thuê thôi mà”. Tôi hơi ngạc nhiên: “Sao vậy?”. Phụng trả lời: “Thì làm thuê cho các đơn đặt hàng. Họ yêu cầu gì là phải làm theo ý họ. Làm không đúng là họ trả lại liền. Họ mới là chủ”.
Chính từ câu trả lời rất thật ấy mà trong tôi bắt đầu nảy ra ý định quan sát, tìm hiểu và phân tích xem trong một xã hội mênh mông, đầy ắp những người là người này, ai là chủ và ai là người làm thuê?
Rồi mọi thứ cũng vỡ ra. Nếu chẻ hoe “sợi tóc ra làm tư” thì mới thấy rằng đi tìm một người “suốt đời làm chủ” thật khó khăn và tìm một người “suốt đời làm thuê” còn khó khăn hơn nữa.
Ta thử phân tích theo quan niệm “ai trả tiền thì người ấy là chủ” thì sẽ thấy ngay rằng, hầu như tất cả mọi người đã từng nhiều lần làm chủ mà không hay biết. Chẳng thế, giới doanh nhân trên toàn cầu đều phải công nhận một triết lý kinh doanh “khách hàng là Thượng đế”. Mà trong mơ ước của nhiều người, được làm đến Thượng đế thì “oách” nhất rồi!
Và cứ tư duy theo dòng chảy đó thì Thủ tướng hay Bộ trưởng trong mọi bộ máy nhà nước trên thế gian này cũng chỉ là những người làm thuê mà thôi. Bởi một lẽ đơn giản rằng, mỗi người dân đều mưu cầu một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Họ luôn muốn môi trường sống xung quanh mình có những dịch vụ cần thiết, như an ninh, làm ăn, giáo dục, y tế…, và họ thông qua việc đóng thuế cho bộ máy nhà nước hoạt động để đáp ứng. Tất cả ai lĩnh lương từ nguồn đóng góp của người dân đều có thể phân vào vai “những người làm thuê” theo nghĩa đó.
Như vậy, mỗi một người trong xã hội đều xuất hiện trong vai người làm chủ và người làm thuê với lượng nhiều ít khác nhau, vị thế khác nhau, môi trường khác nhau, chẳng ai có thể “nắm tay từ tối đến sáng” được.
Và có một sự khác nhau nữa cần được chia sẻ trong bài viết nho nhỏ này, đó là văn hóa làm thuê.
Cuộc sống đã nhiều lần chứng minh rằng, làm chủ hay làm thuê đều có sự trả giá của nó. Trở lại trường hợp của doanh nhân Tăng Minh Phụng. Ông đã bị lĩnh án tử hình sau một vụ án còn để lại nhiều ám ảnh trong giới doanh nhân Việt Nam.
Tăng Minh Phụng khi đang trên đỉnh của vinh quang với những cuộc đầu tư hàng trăm triệu USD, với hàng chục xưởng may và gần 10.000 công nhân…, đã kể với bạn bè rằng có đi xem bói, thầy bảo cuối đời sẽ cực kỳ khốn khó, chết không có chiếu mà chôn. Tưởng là câu chuyện vui, thế mà chỉ chưa đầy chục năm sau, sự khắc nghiệt của thương trường đã biến điều đó thành sự thật...
Loại trừ một số những kẻ rắp tâm lừa đảo phải vào vòng tù tội, phần lớn các nhà doanh nghiệp bị khuynh gia bại sản bởi những rủi ro ngoài sự kiểm soát của mỗi cá nhân. Có người đặt câu hỏi, một khi đã có tài sản cả chục triệu đôla Mỹ, nếu họ chỉ cần gửi vào ngân hàng thì không những họ mà cả con cháu họ nữa, suốt đời sống trong nhung lụa, vinh hoa phú quý. Vậy họ lao vào thương trường để làm gì rồi sau đó rất có thể là sự khổ nhục hoặc thậm chí nằm dưới lưỡi hái của tử thần?
Vì thế, người làm thuê đều cần có cách ứng xử công bằng đối với những người hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng trả tiền cho mình. Những đồng tiền ấy không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả lao tâm khổ tứ của những người làm chủ. Chẳng thế, nhiều chủ cửa hàng đã phải dặn dò nhân viên của mình rằng, khách hàng chính là ân nhân, trong sâu thẳm trong lòng các bạn rất cần có sự kính trọng và chăm sóc chu đáo của người nhận ơn.
Vì thế, suy cho cùng, trong xã hội đang tồn tại một vòng xoay bất tận là người nọ làm thuê cho người kia. Ở trong đó luôn ẩn chứa một giá trị văn hóa, đó là lòng biết ơn của mỗi con người với con người.