Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trả lời chất vấn các đại biểu Quốc hội |
Kiên quyết không nới trần nợ công
Trước khi đặt câu hỏi cho Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, các đại biểu Nguyễn Tạo (Lâm Đồng), Trần Hoàng Ngân (TP. Hồ Chí Minh) lập luận, theo số liệu báo cáo cho thấy, trong những năm gần đây, khoản nợ gốc và lãi vay mà chúng ta phải trả tăng rất nhanh. Cụ thể, nếu năm 2010 chỉ có khoảng 100.000 tỷ đồng thì đến năm 2017 đã lên đến 250.000 tỷ đồng và hiện nợ công quốc gia đã sát trần cho phép là hơn 60% tổng GDP. Thực tế này đưa đến rủi ro lớn do điều kiện kinh tế- xã hội của nước ta còn nhiều khó khăn.
“Vậy, với tư cách là người chịu trách nhiệm chính về quản lý nợ công quốc gia, Bộ trưởng sẽ có giải pháp cụ thể như thế nào để đảm bảo an toàn nợ công nhưng vẫn đảm bảo được nguồn vốn để đầu tư cho phát triển”- các đại biểu nêu câu hỏi.
Trả lời, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng thừa nhận áp lực nợ công lên ngân sách quốc gia là rất lớn, vì vậy, cần phải có lộ trình giảm dần bội chi ngân sách và đảm bảo an toàn nợ công. Theo Bộ trưởng, trước bối cảnh đó, triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ 12 của Đảng, Bộ Tài chính đã tổng kết đánh giá và trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 07 về tái cơ cấu ngân sách nhà nước và đảm bảo an toàn nợ công bền vững. Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết 25 về kế hoạch tài chính trung hạn 5 năm, giai đoạn 2016 – 2020, trong đó đã đưa ra giới hạn về an toàn nợ công với trần nợ công không quá 65%, nợ Chính phủ không quá 54% và nợ nước ngoài quốc gia không quá 50%.
“Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp để tăng cường quản lý nợ công” – Bộ trưởng Dũng nói và cho biết thêm, trong thời gian tới, một trong những giải pháp đảm bảo an toàn nợ công là nguồn đầu tư từ ngân sách chỉ tập trung cho các dự án quan trọng. Bên cạnh đó là nhóm giải pháp để xác định rõ mức bội chi ngân sách nhà nước và lộ trình cắt giảm bội chi. Theo Bộ trưởng Tài chính, trong kế hoạch tài chính 3 năm tới, chúng ta đã xác định bội chi ngân sách lần lượt là 3,5% năm 2017; 3,7% năm 2018 và sẽ giảm xuống 3,6% vào năm 2019, đến năm 2020, con số này sẽ là 3,4%.
“Kiểm soát được bội chi là giải pháp quan trọng để gia tăng kiểm soát tốc độ gia tăng nợ công, cũng như kiểm soát trần nợ công, trong đó có giải pháp tiếp tục siết chặt bảo lãnh Chính phủ” – Bộ trưởng khẳng định và cho biết thêm, hiện Chính phủ đã và đang có nhiều giải pháp trong phát hành trái phiếu Chính phủ theo hướng kéo dài kỳ hạn phát hành và giảm lãi suất.
“Nếu năm 2011, kỳ hạn phát hành trái phiếu là 3,9 năm thì đến 2016 kỳ hạn phát hành trái phiếu là 5 năm và 10 tháng đầu năm, nay kỳ hạn phát hành trái phiếu trong nước là 12,57 năm. Lãi suất cũng giảm dần, từ 12,01%/năm trong năm 2011 xuống 6,48%/ năm trong năm 2016 và là 6,04%/ năm trong 10 tháng năm 2017”- Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết thêm, cơ cấu ngược vay nợ trong nước đã tăng lên, lãi suất hạ xuống, kỳ hạn dài hơn. Về nội dung giải ngân vốn ODA, vốn vay ưu đãi, Bộ trưởng Tài chính khẳng định, Chính phủ kiên định mục tiêu trong giới hạn Quốc hội đã thông qua là 300.000 tỷ đồng cho cả giai đoạn và đảm bảo cân đối bố trí trả nợ đầy đủ và đúng hạn.
Nhiều giải pháp chống thất thu ngân sách từ thuế
Trước ý kiến của các đại biểu Quốc hội đề nghị cho biết, giải pháp xử lý thực trạng nhiều khoản thuế, phí liên tục tăng trong khi tình trạng thất thu thuế diễn ra ở nhiều nơi, trong nhiều lĩnh vực, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhắc lại, từ năm 2015, chúng ta đã sửa đổi luật thuế theo hướng đơn giản hoá và có nhiều thay đổi phù hợp với thực tiến. Ví dụ, thuế thu nhập cá nhân được tính trên doanh thu thay vì tính theo biểu thuế lũy tiến; với hộ kinh doanh đã áp dụng mức thuế khoán đối với chịu thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp, ngoài ra, hộ kinh doanh còn phải nộp phí môn bài và các loại thuế khác, như: tiêu thụ đặc biệt, tài nguyên bảo vệ môi trường (nếu có).
“Quy trình hiện nay khá chặt chẽ nhưng đang có nhiều ý kiến” – Bộ trưởng thừa nhận và lý giải, các mức thuế khoán đối với các hộ kinh doanh do hội đồng cấp xã, phường quyết định, tuy nhiên, trong thực tế vẫn tồn tại nhiều bất cập gây ảnh hưởng đến nguồn thu này.
Với doanh nghiệp, hiện quy định là tự tính, tự khai, tự nộp thuế, doanh nghiệp cũng tự in hóa đơn hoặc mua của cơ quan thuế. Tuy nhiên, hiện nay người dân vẫn hai thói quen là người mua hàng ít dùng hóa đơn và thói quen trả bằng tiền mặt. “Đây là khâu rất khó” – Bộ trưởng nói và trình bày giải pháp, hiện nay, Bộ Tài chính đang xây dựng nghị định về hóa đơn điện tử. Cùng với việc kê khai, tự tính, tự nộp thuế bằng điện tử, hóa đơn điện tử vô cùng quan trọng, có xác thực của cơ quan thuế. Hiện đã triển khai thí điểm ở một số tỉnh, địa phương và một số doanh nghiệp, kết quả bước đầu là rất khả quan.
Về giải pháp quản lý, hạn chế sử dụng tiền mặt, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Ngân hàng nhà nước đẩy mạnh thực hiện Đề án không dùng tiền mặt trong trao đổi, mua bán hàng hóa trên thị trường.
Bên cạnh đó, ngành thuế đã triển khai đăng ký hóa đơn điện tử xác thực cho 200 doanh nghiệp trên địa bàn của 2 thành phố lớn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, đã có 5.201.000 hóa đơn điện tử có xác thực với số tiền 3.042 tỷ đồng. Đây là cơ sở để ngành thuế và Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
Về giải pháp chống thất thu thuế, Bộ trưởng Tài chính cho biết, sẽ tiếp tục thực hiện kiên quyết các biện pháp đôn đốc nợ thuế, cưỡng chế thuế. Tuy nhiên, “trong quá trình quản lý thuế, đặc biệt quản lý nợ thì việc phối hợp với cấp ủy chính quyền địa phương và liên ngành các địa phương là rất cần thiết”. Theo Bộ trưởng Dũng, ngành Tài chính và thuế sẽ tiếp tục phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đôn đốc thu nợ, tiếp tục rà soát phân loại nợ thuế, song song với nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho người nộp thuế.