Đảo Đá Tây
Chuyến thăm Trường Sa bằng con tàu khách của Hải quân, tuy đã quá “tháng ba bà già đi biển”, nhưng may mắn là ít gặp sóng gió, khiến hành trình không như những gì vẫn tưởng trước chuyến đi.
Nhưng có ra đến biển, rồi lại gặp những người hằng ngày sống với biển, từ người lính đến người dân, rồi được nghe những câu chuyện và được chứng kiến những điều mắt thấy mới thấm dần cái gian nan cũng như cái mạnh mẽ của những con người gắn với biển cả.
Lần này ra đảo, có một điều mới mẻ là ban đêm nhìn từ xa đã thấy ánh đèn sáng thắp quanh đảo và ban ngày thì những tháp phong điện rải đều những cánh chong chóng xoay tròn trên đảo như những cánh tay vẫy chào. Đó là những ứng dụng mới mà trong đất liền đến nay vẫn chưa phải đã phổ biến. Hệ thống chiếu sáng công cộng hoàn toàn dùng năng lượng mặt trời gắn đồng bộ ngay trên mỗi cột đèn. Còn hàng chục máy phát điện năng lượng gió trên mỗi đảo tích điện và ắc quy đủ góp một phần quan trọng cung cấp năng lượng sử dụng các thiết bị thường xuyên và cấp ánh sáng về đêm. Càng bớt nguồn điện chạy máy phát bao nhiêu càng không chỉ tiết kiệm được xăng dầu phải chở từ đất liền ra mà còn góp phần bảo vệ môi trường trên đảo. Năng lượng sạch và ý thức giữ gìn môi trường luôn được những người trên đảo nhắc đến như một tiêu chuẩn sống.
Lâu nay mới đến Trường Sa, mọi người đều nhắc tới cây phong ba, cây bão táp vì thích ứng với sự khắc nghiệt của nắng, gió, hạn và mặn… Bây giờ thì hệ sinh thái ở đây ngày càng phong phú. Cây bàng thường thấy trên hè phố hay trong sân trường ở Hà Nội thì ở đảo Nam Yết cũng có, chỉ có điều màu lá đỏ rực giữa hè. Cây dừa được trồng nhiều khiến đảo còn có thêm tên gọi là “Đảo Dừa”.
Đã thấy cả phi lao, cây tra, cây nhàu, cây xoài… Riêng đu đủ thì có mặt ở khắp nơi, quả lúc lỉu bên những vườn rau có tường bao chăn gió mặn… Đã thấy lững thững những chú bò dạo trên đảo Song Tử Tây, những chú lợn ủn ỉn ra ngắm biển, chà mình vào những chiếc cột đèn “tự sáng”, lại thấy bầy vịt đông lội tung tăng dập dềnh trên mặt sóng Đá Tây… Tiếng gà gáy và tiếng chó sủa trở thành những âm thanh quen thuộc trên đảo khiến người ta đỡ nhớ đất liền.
Trên một vài đảo đã thấy những cánh chim bồ câu mang từ đất liền ra và trên những hàng cọc ngoài xa bờ tựa những hàng cọc Bạch Đằng dăng dăng che chắn đảo, các chiến sĩ đã làm những cái tổ để dụ chim về đẻ. Không phụ lòng người, đã thấy cái cảnh đất lành chim về đậu trên những hòn đảo chung sống với người và vươn tới những dải đất mới được bồi bởi những rạn san hô nhú dần lên từ biển.
Máy thu hình giờ đây là sự kết nối với đất liền và rộng hơn là cả thế giới. Mọi chuyện thời sự đều được những người ngoài đảo theo dõi hằng ngày. Gặp tôi, một chiến sĩ hỏi về đường sắt cao tốc sắp đem ra Quốc hội thảo luận. Khi được hỏi ý kiến, vị cử tri trẻ tuổi mặc áo lính hồn nhiên bày tỏ: “Thích quá đi chứ, mấy ngày đi biển mới về tới đất liền, lên tàu cao tốc vù một cái đã tới gần quê rồi, lên xe ôm một lèo là đến nhà”. Công lao của các cơ quan truyền thông đáng được ghi nhận là ở đảo nào cũng thu được chương trình truyền hình từ đất liền và máy thu hình được trang bị đến cả những nhà giàn hay các cụm chiến đấu ở tách biệt ngoài tiền tiêu… Với sóng của Viettel, anh em làm báo trong đoàn tác nghiệp rất hiệu quả.
Cuộc sống ở đâu cũng trở nên sống động hơn khi có những mái ấm gia đình và tiếng cười trẻ thơ. Lần đầu ở Trường Sa đã có lũ trẻ nép bên cha mẹ đứng cạnh đội ngũ quân nhân sắp hàng chào đón khách đến thăm đảo. Nắng gió biển đảo không làm đen thêm làn da vốn sống gần gũi với biển cả của chúng. Những tấm áo màu sặc sỡ của trẻ làm sống động thêm màu trắng của trang phục hải quân ngày hè hay màu xanh của các lực lượng khác trên đảo xa, những người thợ xây dựng hay những người phục vụ trong các trạm khí tượng, trạm cung ứng thủy sản, thợ máy các tàu vãng lai. Và lần này lại được gặp cả các chiến sĩ cảnh sát biển đến từ chiếc tàu cao tốc màu tím đang neo đậu ngoài khơi.
Lại gặp ở vài hòn đảo lớn trụ sở cơ quan xã và các “quan chức” đôi khi kiêm cả giáo viên tiểu học. Cô Bùi Thị Nhung ở Trường Sa Lớn là cô giáo chuyên nghiệp đầu tiên ra đảo. Trẻ con ít, thày giáo còn thiếu, cô một mình dạy cả bốn lớp của cấp một. Lên cấp hai, các cháu phải về đất liền. Đã có những đứa trẻ chào đời trên đảo, là công dân đảo hoặc của những gia đình vạn chài vãng lai ngang đảo. Chưa đến vụ nên biển Trường Sa còn vắng bóng các con tàu đánh bắt xa bờ đến khai thác vựa cá giàu có của biển. Nhưng ở đâu, Song Tử Tây hay trạm dịch vụ thủy sản trên đảo Đá Tây, người ta chuẩn bị sẵn sàng cho một vụ đi biển mới. Trên đảo Sơn Ca, một ngọn hải đăng cao dần từng thước để đến ngày rọi sáng thêm một góc biển Trường Sa.
Đúng là chúng tôi may mắn được hưởng những ngày lặng sóng trên chuyến đi Trường Sa. Nhưng chúng tôi cũng hiểu biển cả là thất thường và vô lường. Tác động của những biến đổi khí hậu đã hiển hiện khiến năm nay hạn nặng. Với đảo, thiếu mưa là thiếu nước ngọt, cái quý nhất, cần nhất trên biển cả.
Trên hành trình đến đảo Sinh Tồn, tàu dừng lại ở một điểm ngoài khơi để mọi người tưởng niệm những chiến sĩ hải quân đã anh dũng hy sinh trong một trận đánh cách đây đã 22 năm để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Đặt chân lên đảo Nam Yết, chúng tôi cũng đứng lặng trước nấm mồ một chiến sĩ rất trẻ quê ở Quỳnh Lưu, Nghệ An vừa mới hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Chúng tôi hiểu rằng, Trường Sa không chỉ có những ngày lặng sóng…
Ngày cuối cùng trên đảo Song Tử Tây trước khi trở về đất liền, cũng như hai lần trước ở trên đảo Trường Sa Lớn và Sinh Tồn, mọi người trong đoàn cùng các vị sư tăng tổ chức lễ cầu siêu cho các chiến sĩ đã hy sinh cũng như đồng bào tử nạn trên biển cả Trường Sa. Tiếng đọc kinh và tiếng chuông thu không trên những mái chùa cong đọng ánh chiều tà của biển đảo làm nao lòng người khi nghĩ về biết bao thế hệ những con người từ đất liền Tổ quốc đã ra nơi đầu sóng ngọn gió này không chỉ mưu sinh mà còn vun đắp cho cơ nghiệp của giang sơn Việt Nam.
Đêm cuối cùng ấy, khi mọi người sau lễ cầu siêu đã trở về tàu, trong ánh chiều tà nhìn lên trời thấy những đám mây vần vũ ở phía Tây xen với mống cầu vồng ở phía Đông, nghe từ đảo điện ra “có mưa to lắm, có nước ngọt rồi!” và lời chào cảm ơn của những người trên đảo.
Con tàu nhổ neo, mặt nước lặng ngắt tím đen. Người sĩ quan hải quân lão luyện hướng dẫn chuyến đi nói với chúng tôi rằng biển lặng quá đôi khi là dấu hiệu sắp có bão tố…
Trong đoàn có một người đầu đội chiếc mũ tai bèo in dòng chữ “Trường Sơn Đông nắng Tây mưa, ai chưa đến đó như chưa rõ mình”. Tôi cũng muốn viết ra đây một câu tương tự: “Có ra Trường Sa mới thấy Tổ quốc ta mênh mông đến nhường nào”.