Tại thời điểm đó, Hoa Kỳ đã phủ quyết ý tưởng này và đưa ra đề xuất “IMF so với AMF” khi mà bất kỳ loại AMF nào cũng sẽ làm suy yếu vai trò trung tâm của IMF trong hệ thống tài chính toàn cầu. 20 năm sau, vòng lưu chuyển đã khép lại với việc IMF đưa ra một khuôn khổ về hành động hợp tác với các thỏa thuận khu vực. Có thể nói, ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, vị trí của Hoa Kỳ không phải là không hợp lý, nhưng các quan chức tài chính châu Á đã phủ nhận điều này. Họ không thể tưởng tượng được những méo mó của chính sách cùng với tỷ giá hối đoái cố định và chính sách tiền tệ độc lập cũng như sự giám sát của các khu vực tài chính đã tạo đà cho cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, việc thúc đẩy AMF đã mang lại những khoảng trống trong cấu trúc tài chính khu vực và toàn cầu. Những gì xảy ra tiếp theo là ASEAN đang tìm cách bắt kịp, ngăn chặn khoảng cách với các nhóm tư vấn như Nhóm Manila và một loạt các thỏa thuận song song về tài chính từ “Những người bạn của Thái Lan” đến cái gọi là “phòng thủ thứ hai” của Indonesia.
Cuộc khủng hoảng châu Á chính thức bùng phát ngày 2/7/1997. Vào cuối tháng 7, các kế hoạch của Nhật Bản và hợp tác với IMF đã được triển khai trên cơ sở hội nghị khu vực về Thái Lan. Nhóm họp không chính thức này được Nhật Bản tổ chức tại Tokyo ngày 11/8 đã trở thành nhóm “Những người bạn của Thái Lan”. Kết quả cụ thể của hội nghị là một loạt các cam kết tài chính của 7 nước và các cam kết đa phương với sự vắng mặt của Hoa Kỳ.
20 năm đi qua, IMF đã đưa ra các kế hoạch làm cho mạng lưới an toàn tài chính toàn cầu trở nên hiệu quả hơn thông qua hợp tác với các thỏa thuận tài chính khu vực, một kết quả dường như rất xa vời giữa cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. |
Đáng chú ý là thỏa thuận huy động 17,2 tỷ USD như một câu chuyện thành công của khu vực từ những nỗ lực đặc biệt, nhằm cung cấp tài chính để xoa dịu hệ quả của cuộc khủng hoảng. Sự hỗ trợ này được cấu trúc thành một loạt thỏa thuận song phương giữa Thái Lan với từng quốc gia và được dựa theo các chương trình hỗ trợ của IMF. Ngược lại, gói hỗ trợ hơn 40 tỷ USD của Indonesia bao gồm “phòng thủ thứ hai” 18 tỷ USD thông qua hỗ trợ song phương đã không thành công. Quy mô khổng lồ của quỹ hỗ trợ tại thời điểm đó được coi là cách tiếp cận “gây sốc và sợ hãi” báo hiệu cho các thị trường tài chính rằng sự ổn định đã được đảm bảo.
Hàn Quốc- một nước Đông Bắc Á là ví dụ điển hình có kinh nghiệm hỗ trợ quốc tế rất khác. Theo đó, các nỗ lực về nợ nước ngoài thông qua hệ thống ngân hàng Hàn Quốc cho phép điều phối cơ chế kiểm soát vốn tương đối hiệu quả, tạo ra cơ chế một cửa để tái cơ cấu nợ dựa vào thị trường trong nửa đầu năm 1998. Ở đây, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ giữ vai trò hàng đầu cùng các ngân hàng trung ương khác được hỗ trợ bởi sự đóng góp kỹ thuật của IMF và các quan chức chính phủ Hàn Quốc. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo của châu Á nhất trí trong các tuyên bố ủng hộ về cần thiết phải có một cơ chế ứng phó với khủng hoảng khu vực bao gồm cả việc tài trợ. Tuy nhiên, vẫn có những vấn đề tiếp tục đặt ra thách thức về độ tin cậy của các thỏa thuận như Sáng kiến Chiềng Mai ASEAN+3 ngày nay. Cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu khi đó dù không phản đối đề xuất về AMF nhưng đã cảnh báo rằng, một thỏa thuận như thế sẽ cần phải hành động nhiều hơn là cung cấp tài chính cho các nước bị khủng hoảng tránh được những cải cách thiết yếu…
ASEAN là bên tham gia chứ không phải là người dẫn dắt khi cuộc khủng hoảng nổ ra. Phản ứng cụ thể nhất của ASEAN đã xuất hiện sau đó vài năm cùng các nước ASEAN+3 thông qua sự ra đời của Sáng kiến Chiềng Mai năm 2000. Đây là bước đi đầu tiên đặc biệt khiêm tốn vì các phương thức hoạt động vẫn được xác định trong ít nhất một thập kỷ và chỉ đến năm 2016 mới chính thức vận hành để thử nghiệm năng lực của Sáng kiến Chiềng Mai trong ứng phó với khủng hoảng.