CôngThương - Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XXI, TP.HCM đã quyết tâm đặt nền tảng cho ngành công nghiệp phần mềm, với sự ra đời của Công viên Phần mềm Quang Trung. Sau gần 10 năm nhìn lại, không ai quên tên những người đi tiên phong đầu tư vào đây, như ông Nguyễn Hữu Lệ, Tổng giám đốc Công ty TMA; ông Ngô Đức Chí, Giám đốc điều hành Công ty Cybersoft Global…
Rồi sự xuất hiện của Intel, tập đoàn sản xuất chip hàng đầu thế giới của Mỹ tại Khu công nghệ cao TP.HCM (SHTP) năm 2006 gắn liền với tên ông Thân Trọng Phúc. Các nhà quản lý của SHTP không thể quên được sự đóng góp to lớn của ông Phúc trong việc xúc tiến đưa Intel vào Việt Nam.
Liên tiếp sau đó, những cái tên khác như Võ Quang Huệ, Don Tran, Hồ Nhơn, Trần Đức Thái... cũng được nhắc đến nhiều khi họ trở thành cầu nối để các hãng công nghệ lớn trên thế giới chọn Việt Nam làm địa điểm đầu tư và hợp tác.
Những ngày đầu tháng 4 vừa qua, chúng tôi đã có dịp gặp lại ông Võ Quang Huệ, Giám đốc điều hành Công ty TNHH Robert Bosch Việt Nam (thuộc sở hữu của Tập đoàn Robert Bosch, Đức), tại lễ ra mắt nhà máy sản xuất dây chuyền lực biến đổi liên tục (dùng trong hộp số tự động của xe hơi) tại Khu công nghiệp Long Thành (Đồng Nai). Vào ngày 11/5 tới, Robert Bosch sẽ tiếp tục khánh thành Trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại TP.HCM. Đây là trung tâm R&D đầu tiên mà Bosch đầu tư tại khu vực Đông Nam Á.
“Nếu Việt Nam có nhiều trung tâm như thế thì sẽ không khó để tạo ra một đội ngũ hạt nhân nhằm thu hút các tập đoàn công nghệ cao”, ông Huệ nhận định.
Ngay trong thời điểm Robert Bosch hiện thực hóa những cam kết của mình tại thị trường Việt Nam, đợt “sóng ngầm” khác trong lĩnh vực công nghệ cao đã diễn ra tại SHTP, một trong 5 công trình kinh tế trọng điểm của TP.HCM. Cụ thể, trong vòng 4 tháng đầu năm, bên cạnh việc cấp phép cho 4 dự án mới (về năng lượng sạch và công nghệ sinh học), Công ty GES Global và đối tác Tokyo Electron Ltd. (Nhật Bản) cũng mở ra một cơ hội hợp tác lâu dài khi GES hoàn tất việc nâng cấp 2 nhà máy sản xuất các thiết bị bán dẫn đầu tiên tại Việt Nam.
Song tương lai sẽ không chỉ dừng lại ở câu chuyện chế tạo ra linh kiện, thiết bị để phục vụ chuỗi giá trị sản xuất công nghiệp toàn cầu, mà còn hướng đến những sản phẩm dùng trong y học (sản xuất vaccin, thiết bị chẩn đoán bệnh, ung thư…), thông qua việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học. Đây cũng là một trong 6 lĩnh vực trọng yếu mà SHTP ưu tiên thu hút đầu tư trong chiến lược 5 năm tới.
Ông Hồ Nhơn (Việt kiều Mỹ), Giám đốc Công ty TNHH Sinh học Việt Mỹ đã “châm ngòi” với Dự án Trung tâm sản xuất – kinh doanh sinh phẩm chẩn đoán có giá trị đầu tư hơn 30 tỷ đồng vào cuối tháng 2 vừa qua.
Về sự kiện trên, GS.TS. Nguyễn Đức Thái (Việt kiều Mỹ), Trưởng nhóm Đề án Phòng thí nghiệm công nghệ sinh học, Trung tâm R&D, SHTP chia sẻ, dù dự án chưa đi sâu vào công tác R&D, nhưng là tín hiệu tốt cho thấy, Việt Nam đang có tiềm năng phát triển ngành công nghệ sinh học. Theo ông Thái, sau nhiều thập niên tập trung vào công nghiệp điện tử – tự động và Internet, nhiều quốc gia châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc hiện đều xem công nghệ sinh học là xu hướng tất yếu.
Xét về giá trị của những sản phẩm được tạo ra từ ngành này, GS. Thái viện dẫn trường hợp của Nhật Bản. Mới đây, Nhật Bản giới thiệu ra thị trường máy chẩn đoán khá chuẩn xác nguy cơ đột quỵ ở người (thông qua phân tích 5 gen từ người). Máy có giá gốc là 200.000 USD, chưa kể đến chi phí của những phụ kiện đi kèm. "Thử nghiệm này có thể được làm đơn giản hơn bằng phương pháp sinh học khác và giá thành có thể giảm xuống 5 - 10 lần!", GS Thái tự tin nói. Để xây dựng nền tảng cũng như tìm kiếm những cơ hội hợp tác trong lĩnh vực công nghệ sinh học, TS. Thái và Ban quản lý SHTP lập chương trình "Biotechnology Investment Forum" qua sự kết hợp với TP. San Francisco để mời gọi các hãng biotech tham gia.
Để kết thúc bài viết này, xin mượn lời của ông Don Tran, Chủ tịch HĐQT Công ty GES Global: “Dù thử thách trong những ngành công nghệ cao này không nhỏ, nhưng tiềm năng của TP.HCM hay nói rộng hơn của Việt Nam là có. Song, tiềm năng chỉ được phát huy tối đa khi Việt Nam đáp ứng đủ những điều kiện về hạ tầng cứng lẫn mềm”