Những rào cản vô hình
Đi sâu vào các thôn, bản vùng sâu, vùng xa… không khó để được nghe, được chứng kiến những câu chuyện buồn về người phụ nữ DTTS. Đó là chuyện về những cô gái dân tộc Gia Rai yêu, có con với người yêu mà không thể cưới vì không lo được một khoản tiền lớn để “cưới chồng”; đó là trường hợp cô bé người Mông ở Sơn La đi học vừa biết cái chữ đã nghỉ để cưới chồng, sinh con; hay chuyện cô gái người Dao ở Lai Châu, chỉ vì tin lời người họ hàng nên bị bán sang Trung Quốc sống cuộc đời tủi cực...
Khi được trao quyền, phụ nữ luôn là những người làm việc trách nhiệm và hiệu quả |
Những trường hợp như trên không quá nhiều nhưng lại là minh chứng cho thấy, vẫn còn những rào cản đang bủa vây người phụ nữ DTTS. Rào cản này chính là phong tục, tập quán cổ hủ lạc hậu, là tình trạng trọng nam khinh nữ; là sự thiếu hiểu biết pháp luật, không cập nhật thông tin… do điều kiện địa lý xa xôi, cách trở. Những rào cản này đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng khi mà tỷ lệ người biết đọc, biết viết của phụ nữ DTTS thấp hơn nam giới rất nhiều; phần đông phụ nữ vẫn phụ thuộc về kinh tế do không được đứng tên trong sở hữu đất đai và nhà cửa; đảm nhiệm vai trò mang thai sinh nở, duy trì giống nòi nhưng nhiều phụ nữ hầu như không được chăm sóc, thăm khám khi mang thai; việc nội trợ, chăm sóc trẻ em, người già, người ốm đương nhiên là trách nhiệm của phụ nữ.
Đáng nói hơn cả, định kiến về vai trò của giới nữ khiến phụ nữ DTTS khó có thể phát huy năng lực nội tại và tính tự quyết trong gia đình và cộng đồng. Sau rất nhiều cố gắng, đến nay tỷ lệ phụ nữ DTTS giữ các vị trí lãnh đạo có quyền quyết định chính sách tương đối thấp; đây cũng là hậu quả của tình trạng bất bình đẳng giới trong tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách.
Lồng ghép giới để thu hẹp khoảng cách
Trước những bất cập còn tồn tại trong đời sống của người phụ nữ DTTS, công tác phụ nữ tiếp tục nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành, các đơn vị, tổ chức. Trong đó, mục tiêu hướng đến là giúp phụ nữ DTTS làm chủ, thực hiện và hưởng lợi từ các mô hình được triển khai.
Theo đó, đã có rất nhiều chương trình, dự án dành cho phụ nữ DTTS được triển khai trên các vùng, miền của đất nước, như: Tổ phụ nữ vay vốn, tiết kiệm, tín dụng; các mô hình hỗ trợ sinh kế trong chương trình Đồng hành cùng phụ nữ biên cương; mô hình liên kết làm du lịch dựa vào cộng đồng; đối thoại khởi nghiệp của phụ nữ vùng DTTS; mô hình con dạy chữ cho mẹ; phương pháp cầm tay chỉ việc để đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở; phát huy vai trò của những người tiêu biểu để tuyên truyền/vận động/dẫn dắt cộng đồng…
Thực hiện những mô hình này, những người phụ nữ DTTS đang cho thấy, mặc dù phạm vi hoạt động vẫn chủ yếu ở cộng đồng thôn, bản, nhưng khi được giao quyền tính toán, quyết định, chị em làm việc rất trách nhiệm và hiệu quả. Đơn cử như với mô hình khai thác, quản lý các nguồn vốn tín dụng (đặc biệt là nguồn vốn tín dụng chính sách của Ngân hàng Chính sách xã hội), Hội Liên hiệp Phụ nữ là 1 trong 4 tổ chức Hội, đoàn thể ký nhận uỷ thác có số dư nợ đứng cao nhất, chất lượng ủy thác tốt, hiện đang dẫn đầu trong 4 tổ chức nhận ủy thác với số lượng hội viên là chị em phụ nữ chiếm tỷ lệ cao.
“Việc tiếp cận nguồn vốn với lãi suất ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội đã giúp hội viên đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất. Từ đó, xuất hiện những điển hình phát triển kinh tế tại địa phương với nhiều mô hình mới, cách làm hay, phát huy được thế mạnh, điều kiện kinh tế của từng thôn, xã. Đặc biệt trong số đó, phụ nữ là người DTTS chiếm tỷ lệ cao” - bà Trần Thị Hồng Nhung – Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai cho biết.
Kết quả này cho thấy, khi được tin tưởng, trao quyền quyết định, ngay cả người phụ nữ DTTS cũng có thể làm rất tốt công việc được giao. Từ đây, họ cũng chính là những người mạnh mẽ bước qua rào cản, là đầu tàu, là lực đẩy để những người phụ nữ DTTS khác cùng quyết tâm phát triển vươn lên; xóa bỏ những định kiến phân biệt, đối xử từ nhiều đời nay dành cho phụ nữ.