Hơn 83% lao động nữ DTTS làm nông nghiệp
Trong số gần 14 triệu người DTTS, phụ nữ chiếm gần 50% (khoảng 6,7 triệu người). Mặc dù quy mô lực lượng lao động tương đương với nam giới, nhưng lao động nữ DTTS vẫn đang là một trong những nhóm “yếu thế” trong thị trường lao động.
Hiện tỷ lệ lao động nữ DTTS không biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 26,82% - cao gấp đôi so với tỷ lệ này của nam DTTS và cao hơn 5 lần so với lao động nữ người dân tộc Kinh. Thậm chí, một số DTTS có trên 50% lao động nữ không biết đọc, biết viết chữ phổ thông như: La Hủ (65,20%), Lự (57,15%), Mảng (56,01%), Brâu (51,84%), Mông (51,12%) và Cơ Lao (50%).
Nhiều lao động nữ DTTS không được hưởng các chính sách ưu đãi dành cho người lao động |
Do tình trạng mù chữ, tái mù chữ cao (đặc biệt là các chị em tuổi từ 35 trở lên) nên phụ nữ DTTS gặp nhiều hạn chế khi tham gia các khóa học nghề, khuyến nông, lâm, ngư nhằm cải thiện/chuyển đổi việc làm và thu nhập. Từ chỗ không đủ khả năng tham gia các khóa đào tạo, dẫn tới trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ DTTS chỉ là 5,9% - trong khi lao động nữ dân tộc Kinh là 16,58%. Cụ thể, lao động nữ DTTS có trình độ “Trung cấp” là 2,5%, “Đại học trở lên” là 1,70% và “Cao đẳng” là 1,40%; “Sơ cấp nghề” còn khiêm tốn hơn, chỉ có 0,2%.
Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy, nữ DTTS có xu hướng tham gia lao động rất sớm và sớm hơn so với nữ người Kinh, nhưng cơ cấu việc làm của lao động nữ DTTS vẫn lạc hậu, phần lớn gắn với nông - lâm nghiệp (khoảng 83,81%); rất ít lao động nữ DTTS có thể đảm nhiệm các nghề nghiệp yêu cầu kiến thức và kỹ năng bậc trung và cao… Bên cạnh đó, do chủ yếu làm nông nghiệp nên nhiều lao động nữ DTTS không thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ Luật Lao động; không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc… dẫn đến những thiệt thòi không đáng có cho chị em.
Xây dựng các mô hình học nghề và tạo việc làm cho phụ nữ
Để hạn chế sự bất bình đẳng trong lao động của phụ nữ DTTS, bên cạnh vấn đề đảm bảo thực hiện lồng ghép giới đầy đủ và hiệu quả trong chính sách, Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) đã nêu ra nhiều khuyến nghị. Trong đó, nhấn mạnh đến quyền tiếp cận và tham gia các hoạt động, chương trình, chính sách, dự án về đào tạo nghề, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư ở vùng DTTS. Đặc biệt là với nhóm nữ DTTS trung tuổi không biết nói, đọc, viết tiếng phổ thông. Cụ thể như với nhóm đối tượng này, cần xây dựng chương trình đào tạo bằng ngôn ngữ dân tộc; đào tạo theo phương pháp kèm cặp, thực hành tại địa phương; thời gian đào tạo dài hơn; có hỗ trợ chi phí hoặc bố trí trông con nhỏ và làm việc nhà trong thời gian đào tạo...
Song song với đó, tăng cường sự tham gia của phụ nữ DTTS và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các tổ chức đại diện khác… hỗ trợ phụ nữ trong quá trình xây dựng, vận hành, quản lý - điều hành và giám sát các chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm và chuyển đổi việc làm ở địa phương, vùng DTTS. Sau quá trình triển khai mô hình thí điểm, cần tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình.
Xây dựng các mô hình hỗ trợ học nghề và tìm việc làm tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp cho nữ thanh niên DTTS mới tốt nghiệp trung học cơ sở và phổ thông trung học. Trong đó, kêu gọi, khuyến khích sự tham gia, cộng tác của chính quyền, đoàn thể địa phương (xã, huyện, tỉnh), các cơ sở dịch vụ việc làm, các cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp tuyển dụng lao động. Các hoạt động hỗ trợ gồm: Tư vấn định hướng nghề nghiệp; tư vấn học nghề; giới thiệu việc làm; hỗ trợ pháp lý trong quan hệ lao động; quản lý tài chính và chuyển tiền về quê hương; tư vấn giải quyết khủng hoảng, khó khăn trong quá trình di cư.