Để tìm hiểu rõ hơn về nghề thủ công truyền thống của đồng bào Raglai, phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc phỏng vấn với nghệ nhân Mấu Hồng Thái.
- Thưa ông, ở tuổi đã cao, điều gì khiến già vẫn miệt mài gắn bó với việc làm gùi, làm nỏ, chế tác đàn Chapi, khèn bầu mỗi ngày?
Nghệ nhân Mấu Hồng Thái: Với tôi, mấy thứ đó không đơn thuần là đồ dùng hay nhạc cụ. Nó là nếp sống, là cách người Raglai lớn lên và được công nhận là người trưởng thành. Ngày xưa, đàn ông Raglai muốn được coi là trưởng thành thì phải biết đan gùi để đi rẫy, biết làm nỏ để đi săn, biết làm đàn, làm khèn để đi chơi. Ai làm được gùi chắc, nỏ tốt, đàn hay thì càng được quý trọng.

Nghệ nhân Mấu Hồng Thái đan gùi và làm các sản phẩm thủ công của người Raglai.
Những vật dụng ấy gắn với đời sống hằng ngày của người Raglai, từ lúc lên rẫy, đi rừng cho đến những đêm trăng thanh, trai gái trong làng ngồi trước hiên nhà dài, nghe tiếng đàn Chapi, tiếng khèn bầu vang lên, rồi các cô gái cất giọng hát sử thi. Tôi làm những thứ này trước hết là để giữ lại ký ức đó, giữ lại cách sống của cha ông.
Tuổi tôi giờ đã cao, sức khỏe không còn như trước. Nhưng khi còn ngồi được, còn cầm dao, cầm mây, cầm gỗ được thì tôi vẫn làm. Mỗi lần vót từng sợi mây, chuốt từng thanh gỗ, tôi thấy mình như được sống lại những năm tháng xưa cũ. Nghề này đã theo tôi cả đời, bỏ thì không đành.
- Trong quá trình chế tác các sản phẩm thủ công truyền thống, hiện nay đâu là khó khăn lớn nhất đối với ông?
Nghệ nhân Mấu Hồng Thái: Khó nhất bây giờ là nguyên liệu. Ngày trước, rừng còn nhiều, muốn làm gùi thì vào rừng lấy mây, muốn làm đàn Chapi thì tìm lồ ô vừa tuổi là có. Bây giờ thì khác rồi, rừng không còn như xưa nữa.
Muốn có nguyên liệu làm gùi, làm nỏ, tôi phải đặt từ các xã khác như Sơn Lâm, Thành Sơn. Lồ ô làm đàn Chapi phải đúng độ tuổi, thường là khoảng một năm, rồi phải phơi đủ 25 - 30 cái nắng thì đàn mới bền, âm thanh mới đạt. Mây làm gùi cũng phải lựa thật kỹ, nếu mây non quá thì gùi nhanh hỏng, mây già quá thì khó đan.
Mỗi sản phẩm đều làm hoàn toàn bằng tay, không có máy móc hỗ trợ. Làm gùi, làm nỏ, làm đàn Chapi đều cần sự tỉ mỉ, kiên nhẫn. Tôi già rồi, tay không còn nhanh, mắt không còn tinh như trước nên mỗi sản phẩm làm ra đều phải chậm, nhưng đã làm thì phải làm cho chắc, cho đẹp. Đó là cách tôi tôn trọng nghề của cha ông.
- Từ những vật dụng sinh hoạt truyền thống, cơ duyên nào đã đưa sản phẩm của ông trở thành hàng hóa và sau đó được công nhận OCOP 3 sao?
Nghệ nhân Mấu Hồng Thái: Ban đầu tôi không nghĩ đến chuyện làm hàng hóa. Sau khi đi bộ đội ở Khánh Sơn rồi ở lại đây theo tục bắt rể của người Raglai, tôi tham gia công tác ở xã. Đến khi nghỉ, tôi làm lại gùi, làm nỏ, làm đàn chủ yếu để luyện tay nghề, ai trong làng cần thì tôi bán, có thêm chút tiền mua gạo.
Dần dần, trong làng và các xã xung quanh ngày càng ít người biết làm những vật dụng này. Trong khi đó, sản phẩm tôi làm ra bền, chắc, nên người ở nơi khác cũng tìm đến mua. Lúc ấy, tôi mới nghĩ đến việc làm sản phẩm dưới dạng hàng hóa, khoảng từ năm 2004.
Về sau, khi có nhiều đoàn khách từ dưới xuôi lên thăm Làng du lịch cộng đồng thôn Hòn Dung, họ mua sản phẩm, hỏi han nhiều hơn, tôi mới nghĩ nếu muốn khẳng định chất lượng thì phải đăng ký OCOP. Ban đầu tôi cũng chưa mặn mà lắm, nhưng rồi nhờ OCOP mà sản phẩm truyền thống của người Raglai được biết đến nhiều hơn, lan tỏa rộng hơn, nên tôi mạnh dạn làm. Khi 4 sản phẩm gồm đàn Chapi, khèn bầu, gùi, bộ nỏ mang tên Hồng Thái được công nhận OCOP 3 sao, tôi thấy nghề của mình được trân trọng hơn.
- Thị trường và du khách đón nhận các sản phẩm OCOP mang dấu ấn thủ công truyền thống của ông như thế nào?
Nghệ nhân Mấu Hồng Thái: Khách đến đây thường thích nghe tôi biểu diễn đàn Chapi, khèn bầu. Nhiều người bất ngờ khi biết những nhạc cụ đó đều do tôi tự tay làm. Ngoài nhạc cụ, họ còn thích xem gùi, nỏ, hỏi về cách làm, cách sử dụng trong đời sống của người Raglai.
Tôi làm sản phẩm theo từng bộ, tùy theo mục đích sử dụng. Những bộ mang tính chất lưu niệm, treo trang trí hay làm đạo cụ biểu diễn thì giá dao động từ 750.000 đồng đến 1,5 triệu đồng. Còn những sản phẩm đặt riêng để phục vụ lao động, thi đấu hay biểu diễn chuyên nghiệp thì giá cao hơn.
Từ nghề này, trung bình mỗi tháng tôi có thêm khoảng 4 triệu đồng. Nhưng với tôi, điều quan trọng hơn là sản phẩm của người Raglai không chỉ còn trong sinh hoạt hằng ngày, mà còn theo du khách về phố thị, trở thành câu chuyện để họ kể lại về vùng cao Khánh Sơn.
- Điều gì khiến ông trăn trở nhất khi nghĩ về tương lai của nghề thủ công truyền thống Raglai?
Nghệ nhân Mấu Hồng Thái: Điều tôi lo nhất là chuyện truyền nghề. Người biết làm gùi, làm nỏ, làm đàn Chapi bây giờ chủ yếu là người già, mà cũng không còn nhiều. Con cháu trong nhà thì đi làm nhà nước, làm công ty, ít ai chịu học nghề này. Thanh niên trong làng cũng có công việc, thú vui riêng, ít người chịu ngồi xem tôi làm, chứ chưa nói đến học.
Tôi luôn nghĩ, nếu lớp già như tôi không còn nữa thì không biết nghề của cha ông sẽ ra sao. Vì vậy, ai muốn học tôi đều chỉ. Có mấy thanh niên được tôi truyền dạy cách làm đàn Chapi, khi họ làm được mang đến cho tôi xem, tôi thấy rất vui.
Chỉ cần còn người chịu học, còn người tiếp nối, thì nghề truyền thống của người Raglai vẫn còn sống. Với tôi, giữ nghề không chỉ là giữ một sản phẩm OCOP, mà là giữ lại bản sắc, ký ức và cách sống của cả một cộng đồng giữa nhịp sống hiện đại đang thay đổi từng ngày.
Xin trân trọng cảm ơn ông!





