Xuất khẩu nông sản: Những tín hiệu tích cực từ thị trường EU

Xuất khẩu nông sản sang EU ghi nhận chuyển biến tích cực, tạo động lực mới để doanh nghiệp Việt cạnh tranh bằng chất lượng, chuẩn hóa và xây dựng thương hiệu.

Xuất khẩu tăng mạnh, thị trường EU cải thiện nhu cầu

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, riêng tháng 11/2025, xuất khẩu thủy sản đạt 989,5 triệu USD, tăng 64,6% so với cùng kỳ 2024. Kết quả này góp phần đưa kim ngạch toàn ngành lũy kế 11 tháng năm 2025 lên 10,5 tỷ USD, tăng 19%. Đối với thị trường EU, giá trị xuất khẩu vượt 1 tỷ USD, tăng 17,4%, cho thấy nhu cầu đang hồi phục rõ rệt, đặc biệt với nhóm thủy sản nuôi trồng, dù thủy sản khai thác vẫn chịu tác động từ cảnh báo IUU.

Chanh leo dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rau quả sang thị trường EU với tỷ trọng khoảng 25% tổng kim ngạch và tăng trên 100%. Ảnh: NNVN

Chanh leo dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rau quả sang thị trường EU với tỷ trọng khoảng 25% tổng kim ngạch và tăng trên 100%. Ảnh: NNVN

Ở nhóm lương thực, số liệu của Cục Hải quan ghi nhận xuất khẩu gạo tháng 11 đạt 374.288 tấn, tương đương 190,14 triệu USD. Dù giá bình quân giảm nhẹ, Việt Nam vẫn duy trì sản lượng xuất khẩu cao với hơn 7,53 triệu tấn trong 11 tháng. Một điểm nhấn quan trọng là sự kiện Công ty CP Lương thực A AN ký kết hợp tác với AWTC GmbH (Đức) để phân phối độc quyền gạo sạch A AN tại châu Âu, mở ra hướng đi dài hạn cho hạt gạo Việt thâm nhập sâu hơn vào EU, nơi tiêu chuẩn chất lượng thuộc hàng khắt khe nhất thế giới. Sản lượng dự kiến 1.000 tấn ngay trong năm 2025 và tăng gấp đôi năm 2026, hứa hẹn tạo tiền lệ tốt cho doanh nghiệp Việt xây dựng thương hiệu trên thị trường cao cấp.

Đặc biệt nổi bật là ngành rau quả, nhóm hàng đang tăng trưởng nhanh nhất tại EU. 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 269 triệu USD, tăng tới 51,7%; dự kiến cả năm 2025 có thể tiệm cận 400 triệu USD, mức cao nhất từ trước đến nay. Chanh leo dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng với tỷ trọng khoảng 25% tổng kim ngạch và tăng trên 100%. Nhiều sản phẩm khác như dứa, xoài, dừa cũng ghi nhận mức tăng từ hai đến ba chữ số nhờ phù hợp xu hướng tiêu dùng xanh, ưu tiên thực phẩm tự nhiên, ít xử lý hóa học.

EU hiện là thị trường tiêu thụ rau quả có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, trở thành điểm sáng giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống. Xét theo quốc gia thành viên, Hà Lan tiếp tục giữ vai trò “cửa ngõ” phân phối lớn nhất, chiếm 35-40% kim ngạch nhờ hạ tầng logistics phát triển. Đức và Pháp đứng thứ hai và ba, có nhu cầu ổn định với nhóm trái cây đông lạnh và sản phẩm chế biến sâu.

Xu hướng tiêu dùng tại EU đang tạo ra sự thay đổi tích cực trong cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt. EU ưu tiên nhập khẩu sản phẩm có giá trị gia tăng cao như trái cây sấy, đông lạnh, nước ép, thay vì chỉ mua hàng tươi nguyên liệu như trước. Điều này giúp doanh nghiệp Việt kéo dài thời gian bảo quản, giảm áp lực logistics, tận dụng mùa vụ đồng thời nâng giá trị xuất khẩu trên mỗi đơn vị sản phẩm.

Nhiều doanh nghiệp đã chủ động mở rộng công suất để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng từ thị trường khó tính. Tiêu biểu, WestFood đưa vào hoạt động nhà máy chế biến nông sản tại Hậu Giang, diện tích 7 ha, vốn đầu tư 666 tỷ đồng, công suất 30.000 tấn thành phẩm/năm, nhà máy lớn nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.

Ở lĩnh vực thủy sản, Công ty CP Thực phẩm Sao Ta (Fimex VN) đang đẩy mạnh xuất khẩu tôm chế biến, tập trung các dòng sản phẩm Nobashi, tôm tẩm bột… nhằm gia tăng giá trị. Doanh nghiệp cũng mở rộng vùng nuôi đạt chuẩn ASC để đảm bảo truy xuất nguồn gốc, tiêu chí ngày càng quan trọng khi EU siết chặt yêu cầu bền vững môi trường và phúc lợi động vật.

Các chuyên gia đánh giá, sự chuyển dịch mạnh sang chế biến sâu chính là chìa khóa cạnh tranh dài hạn. Không chỉ giúp nâng giá trị xuất khẩu nông sản, mô hình này còn biểu hiện việc nông sản Việt đang thích ứng ngày càng nhanh với tiêu chuẩn EU, chuyển từ tư duy “bán thô nhiều nhưng lợi nhuận ít” sang “bán tinh với giá trị cao và ổn định”.

Doanh nghiệp chuyển từ bị động sang chủ động

Một điểm tích cực khác trong năm 2025 là số cảnh báo của EU đối với nông sản Việt giảm gần 50%, từ 114 cảnh báo năm 2024 xuống còn 60. Đây được xem là bước tiến có ý nghĩa lớn bởi EU luôn thay đổi liên tục quy định về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh, phụ gia, nhãn mác. Chỉ cần sai lệch nhỏ, lô hàng có thể bị trả về hoặc tiêu hủy.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, TS Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, cho biết, kết quả này phản ánh nỗ lực từ cả doanh nghiệp và địa phương trong việc kiểm soát chất lượng ngay từ đầu. Thay vì chờ “cảnh báo rồi mới xử lý”, doanh nghiệp bắt đầu chuyển sang cách làm chủ động, tiếp nhận thông tin tiêu chuẩn sớm để điều chỉnh quy trình sản xuất.

Trong năm 2025, Văn phòng SPS đã tổng hợp gần 1.000 thông báo từ các nước thành viên WTO, trong đó có 578 dự thảo quy định mới liên quan an toàn thực phẩm, kiểm dịch và đã tổ chức 6 sổ tay hướng dẫn thực thi SPS theo từng nhóm hàng (EU, Australia, Hồi giáo, thủy sản, rau quả…). Bốn hội nghị quy mô vùng về cam kết SPS trong EVFTA, UKVFTA, RCEP… cũng được tổ chức tại nhiều địa phương nhằm hướng dẫn doanh nghiệp cách đáp ứng tiêu chuẩn mới. Mục tiêu là giảm cảnh báo, tăng năng lực tuân thủ bền vững, nền tảng để mở rộng xuất khẩu ổn định.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đang chuyển hướng tiếp cận EU theo cách mới, không chỉ tìm nhà nhập khẩu mà còn thiết lập hiện diện thương mại, kho ngoại quan, logistics tại EU để chủ động phân phối, chăm sóc khách hàng. Cách làm này giúp rút ngắn thời gian giao hàng, tối ưu chi phí vận chuyển và duy trì hàng hóa lưu thông ổn định.

EU là thị trường tiêu chuẩn cao, thường xuyên cập nhật quy định. Thời gian tới, khối này tiếp tục kiểm soát chặt dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và chống gian lận thương mại. Quy định chống phá rừng (EUDR) được lùi thời hạn triển khai giúp doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị, song vẫn đòi hỏi đầu tư mạnh cho chuyển đổi xanh và minh bạch dữ liệu vùng trồng.

Nhiều chuyên gia cho rằng, để tận dụng tốt Hiệp định EVFTA và duy trì đà tăng trưởng, doanh nghiệp Việt cần đầu tư truy xuất nguồn gốc, vùng nuôi, vùng trồng chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh chế biến sâu, sản phẩm giá trị gia tăng. Theo dõi kịp thời các thay đổi về SPS, MRL, môi trường. Xây dựng thương hiệu và hiện diện thương mại tại EU lâu dài.

Với nền tảng tuân thủ ngày càng cải thiện, cùng sự chủ động từ doanh nghiệp, thị trường EU được đánh giá còn dư địa rất lớn. Nông sản Việt đang dần chuyển từ “đi xin thị trường” sang “xây dựng thị trường”. Đây được xem là một bước tiến quan trọng để nâng vị thế nông sản Việt trên bản đồ xuất khẩu thế giới.

Xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU đang tăng trưởng mạnh mẽ với tín hiệu khả quan ở thủy sản, rau quả, gạo và nhiều sản phẩm chế biến. Không chỉ cải thiện kim ngạch, doanh nghiệp Việt còn từng bước đáp ứng tiêu chuẩn cao về SPS, môi trường và truy xuất nguồn gốc, nền tảng để nông sản Việt chinh phục bền vững thị trường khó tính bậc nhất thế giới.

Nguyễn Hạnh
Bình luận

Có thể bạn quan tâm