
TS. Nguyễn Văn Hội: Môi trường kinh doanh Việt Nam thuận lợi cho các nhà đầu tư
Sản xuất công nghiệp bứt phá
Trong khuôn khổ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Australia do Bộ Công Thương tổ chức ngày 19/11, tại Melbourne (Australia), TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương đã có thông tin về môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Theo đó, về bức tranh kinh tế - xã hội, tính đến tháng 11/2025, quy mô dân số Việt Nam khoảng 101,8 triệu người, thuộc nhóm các quốc gia đông dân trên thế giới, với mật độ dân số bình quân khoảng 328 người/km2. Ngoài ra, với GDP năm 2024 đạt gần 500 tỷ USD (đứng thứ 33 thế giới), GDP bình quân đầu người dự kiến đạt khoảng 5.000 USD vào năm 2025 và tốc độ tăng trưởng GDP những năm qua vẫn duy trì ở mức khá cao, thuộc nhóm các nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
Về sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam năm 2025 vào khoảng 120 tỷ USD, đưa Việt Nam đứng vào nhóm khoảng 23 quốc gia có giá trị sản xuất công nghiệp lớn trên thế giới. Cùng với đó, đến tháng 7/2025, Việt Nam có khoảng 433 khu công nghiệp đang hoạt động hiệu quả và khoảng 700 cụm công nghiệp đang được triển khai, qua đó đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, với tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo chiếm khoảng 25% GDP giai đoạn 2024-2025.

Ông Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương.
Viện trưởng Nguyễn Văn Hội cho hay, một số ngành công nghiệp đặc thù có sức cạnh tranh cao có thể kể đến là công nghiệp điện tử, công nghệ cao, với giá trị sản xuất năm 2024 đạt khoảng 152,5 tỷ USD, nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu thế giới, trong đó khoảng 80% sản lượng phục vụ xuất khẩu.
“Ngành dệt may, da giày có giá trị sản xuất khoảng 79 tỷ USD năm 2024, đưa Việt Nam vào nhóm 3 quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu dệt may, da giày, với khoảng 85% sản lượng phục vụ thị trường quốc tế”, Viện trưởng Nguyễn Văn Hội nói.
Về hóa chất, phân bón, năm 2024 Việt Nam sản xuất khoảng 10,5 triệu tấn, đứng thứ 15 quốc gia có sản lượng lớn. Đối với thép thô, sản lượng vào khoảng 20 triệu tấn/năm vào năm 2024. Ngoài ra, về sản xuất và lắp ráp ô tô, năm 2025, Việt Nam ước sản xuất khoảng 360.000 xe ô tô các loại - đây là một con số tương đối cao.
Thông tin thêm, về môi trường năng lượng phục vụ sản xuất, theo TS. Nguyễn Văn Hội, đến đầu tháng 11/2025, tổng công suất lắp đặt nguồn điện của Việt Nam đạt trên 83.000 MW, đứng thứ 22 thế giới về công suất lắp đặt nguồn điện. Cơ cấu nguồn điện tương đối đa dạng với nhiệt điện than khoảng 29.000 MW, chiếm khoảng 34,9%; thủy điện hơn 23.300 MW, chiếm khoảng 27,7%; điện mặt trời khoảng 13.000 MW, chiếm khoảng 15,6%; điện gió khoảng 10.000 MW; các nguồn điện khác 8.000 MW, chiếm khoảng 9,6%. Việt Nam đang thúc đẩy phát triển đa dạng hóa các loại hình nguồn điện, đồng thời nghiên cứu, chuẩn bị cho việc phát triển điện hạt nhân trong giai đoạn tới.

Toàn cảnh diễn đàn.
Về sản lượng điện thương phẩm, Việt Nam hiện đứng khoảng top 25 thế giới về sản xuất điện, với sản lượng hơn 347 tỷ kWh. Năm 2025, lĩnh vực năng lượng tiếp tục phát triển nhanh, trong đó tỷ trọng điện năng lượng tái tạo chiếm khoảng 30% tổng sản lượng. Đặc biệt, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã đầu tư mạnh vào hệ thống truyền tải điện. Hệ thống đường dây truyền tải được xây dựng đến hầu hết các vùng miền trên cả nước, kể cả miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, bảo đảm cung ứng điện cho các khu vực sản xuất công nghiệp cũng như đời sống người dân.
“Đến nay, Việt Nam đã có khoảng 32.000km đường dây truyền tải các cấp điện áp. Riêng đường dây 500kV đã hoàn thành khoảng 1.700km, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm cung ứng điện ổn định, phục vụ sản xuất và sinh hoạt”, ông Nguyễn Văn Hội nhấn mạnh.
Môi trường pháp lý minh bạch
Về thương mại, Việt Nam hiện có quan hệ thương mại với 190 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do (FTA). Kim ngạch xuất khẩu năm 2024 đạt gần 800 tỷ USD và kỳ vọng đến năm 2025 đạt khoảng 920 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế có kim ngạch thương mại lớn nhất thế giới.
Về thị trường trong nước, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2024 đạt khoảng 6.391 nghìn tỷ đồng, dự kiến năm 2025 đạt khoảng 6.500 nghìn tỷ đồng. Việt Nam chiếm khoảng 0,68% tổng mức bán lẻ hàng hóa toàn cầu. Hệ thống bán lẻ phát triển mạnh với khoảng 3.000 siêu thị, 500 trung tâm thương mại cỡ lớn và khoảng 8.000 cửa hàng tiện lợi. Đặc biệt, cả nước có khoảng 1,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, tạo nên mạng lưới phân phối rộng, thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Về thương hiệu quốc gia, năm 2024, giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam được định giá khoảng 507 tỷ USD, đứng thứ 32/193 quốc gia trên thế giới. Về thương mại điện tử, quy mô thị trường năm 2024 đạt 25 tỷ USD và tiếp tục tăng nhanh; Việt Nam thuộc nhóm 10 thị trường thương mại điện tử tăng trưởng nhanh nhất thế giới và nằm trong Top 5 ASEAN. Chỉ số logistics của Việt Nam cũng cải thiện mạnh, đứng trong Top 5 ASEAN và khoảng Top 40 thế giới.
Về môi trường pháp luật cho đầu tư kinh doanh, trong thời gian qua, nhiều nghị quyết quan trọng của Trung ương và Bộ Chính trị được ban hành nhằm tháo gỡ khó khăn, rào cản, gắn kết giữa hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Có thể kể đến các nghị quyết về thương mại điện tử, về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia, về đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo…

Các đại biểu tham dự diễn đàn.
Các nghị quyết này là nền tảng để thể chế hóa thành hệ thống luật pháp, chiến lược, quy hoạch, chương trình hành động cụ thể, bảo đảm môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, ổn định, dễ dự đoán và phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Trên cơ sở các nghị quyết này, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng loạt chiến lược quan trọng nhằm phát triển kinh doanh, xây dựng cơ chế và chính sách cụ thể thúc đẩy hoạt động sản xuất, thương mại và đầu tư.
Gần đây nhất, tháng 10/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đến tháng 11/2025, ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trước đó, tháng 6/2025, ban hành Chiến lược phát triển ngành điện lực Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050… Tất cả các chiến lược này đều có định hướng, quan điểm, mục tiêu và giải pháp rất rõ ràng, minh bạch, giúp doanh nghiệp chủ động kế hoạch kinh doanh trên thị trường Việt Nam cũng như mở rộng hợp tác khu vực và toàn cầu.
Trên cơ sở các chiến lược và nghị quyết, hệ thống pháp luật Việt Nam tiếp tục được hoàn thiện theo hướng công khai, minh bạch, dễ tiếp cận và dễ thực thi. Nhiều luật quan trọng đã được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh…
TS Nguyễn Văn Hội nhấn mạnh, tính đến nay, Việt Nam có khoảng gần 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động. Theo định hướng đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu tăng mạnh số lượng doanh nghiệp, đồng thời phát triển đội ngũ doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh quốc tế. Các cam kết quốc tế song phương và đa phương cũng được thực thi nghiêm túc để bảo đảm môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch.
Tất cả các cải cách này giúp môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam ngày càng thông thoáng, thuận lợi hơn cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, sản xuất, hợp tác kinh doanh với Việt Nam.

