
Thổ cẩm Tày: Bản sắc văn hóa và sinh kế bền vững vùng cao
Sức sống bản sắc trong từng tấm thổ cẩm
Đối với đồng bào Tày ở các tỉnh như Cao Bằng, Quảng Ninh, thổ cẩm là kết tinh của trí tuệ, kỹ năng và tâm hồn, phản ánh cách người dân nhìn nhận về thiên nhiên, về cuộc sống. Từ lâu, nghề dệt thổ cẩm đã gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt, từ trang phục thường ngày, khăn đội đầu, chăn gối, đến những tấm vải dùng trong nghi lễ cưới hỏi, lễ hội.
Mỗi sản phẩm thổ cẩm đều mang theo một câu chuyện văn hóa riêng. Nền vải chàm đặc trưng điểm xuyết những họa tiết hình học, hoa lá, chim thú… như một cách lưu giữ ký ức của cộng đồng. Những họa tiết ấy không chỉ để làm đẹp, mà còn thể hiện quan niệm của người Tày về sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, giữa quá khứ và hiện tại.

Nghệ nhân Nông Thị Thược (Ảnh: Lương Thảo)
Tại xóm Luống Nọi, xã Hà Quảng (Cao Bằng), nghệ nhân Nông Thị Thược - người đã gắn bó cả đời với khung cửi chia sẻ rằng, dệt thổ cẩm không chỉ để có tấm vải đẹp mà còn để giữ “ngọn lửa” văn hóa. Bà và các nghệ nhân cao tuổi đã mở lớp truyền nghề cho thế hệ trẻ, với mong muốn con cháu hiểu rằng mỗi sợi chỉ, mỗi hoa văn đều là một phần linh hồn của bản làng.
Tuy nhiên, nghề dệt truyền thống cũng từng trải qua giai đoạn khó khăn, đối diện nguy cơ mai một. Do thu nhập thấp, nguyên liệu khan hiếm, lại ít cơ hội tiêu thụ nên nhiều gia đình không còn mặn mà. Giới trẻ, nhất là nữ thanh niên, thường chọn nghề khác có thu nhập ổn định hơn thay vì gắn bó với khung cửi. Trước thách thức ấy, chính quyền địa phương và ngành văn hóa đã có nhiều giải pháp: khôi phục làng nghề, thành lập câu lạc bộ dệt thổ cẩm, mở lớp truyền dạy, hỗ trợ nguyên liệu, đồng thời quảng bá sản phẩm qua các sự kiện văn hóa, du lịch.

Bà con đồng bào Tày ở những địa phương miền núi vẫn gìn giữ nghề thêu và dệt thổ cẩm (Ảnh: Nguyễn Thế Lượng)
Tại Quảng Ninh, bà con đồng bào Tày ở những địa phương miền núi vẫn gìn giữ nghề thêu và dệt thổ cẩm, coi đây là niềm tự hào văn hóa. Các sản phẩm không chỉ phục vụ đời sống hằng ngày mà còn được đưa vào các chương trình du lịch cộng đồng. Du khách tới tham quan có thể tận mắt chứng kiến, thậm chí trải nghiệm ngồi bên khung cửi, tự tay dệt vài hàng sợi, để hiểu hơn giá trị lao động thủ công.
Bà Lý Thị Mai ở xã Quảng La đã gắn bó với nghề thêu thổ cẩm đến nay hơn 60 năm. Bà chia sẻ: “Tôi đam mê thêu thổ cẩm từ tấm bé, từng đường kim mũi chỉ đã ăn vào máu tôi lúc nào không hay. Mặc dù hiện tuổi đã cao, mắt đã mờ, nhưng tôi vẫn cố gắng truyền dạy lại nghề này cho bà con, đặc biệt là những cháu nhỏ”.
Thổ cẩm mở đường cho sinh kế bền vững
Nếu như trước kia, thổ cẩm chủ yếu phục vụ nhu cầu trong cộng đồng thì nay đã vươn ra thị trường rộng lớn hơn. Ở Cao Bằng, tỉnh xác định thổ cẩm là sản phẩm văn hóa - du lịch đặc trưng, được giới thiệu tại các hội chợ, triển lãm, sự kiện trong và ngoài nước. Dự án “Dệt hy vọng” của Công viên Địa chất Toàn cầu Non nước Cao Bằng từng mang thổ cẩm đến hội nghị quốc tế, kết nối sản phẩm truyền thống với bạn bè năm châu.
Nhiều hộ gia đình, hợp tác xã đã coi nghề dệt thổ cẩm là sinh kế chính. Ngoài sản phẩm truyền thống, người dân đã sáng tạo thêm các mẫu túi xách, khăn choàng, ví, mũ, áo… với thiết kế hiện đại, phù hợp với thị hiếu giới trẻ và khách du lịch quốc tế. Việc đa dạng hóa mẫu mã giúp tăng khả năng tiêu thụ, tạo thêm việc làm, nhất là cho phụ nữ vùng cao.
Ở Quảng Ninh, việc gắn kết nghề dệt, thêu thổ cẩm với du lịch cộng đồng đã mở ra hướng phát triển bền vững. Khách du lịch khi đến tham quan các điểm văn hóa, làng nghề thường mua sản phẩm làm quà lưu niệm. Đây không chỉ là nguồn thu nhập trực tiếp cho người dân, mà còn là kênh quảng bá tự nhiên, lan tỏa giá trị văn hóa ra ngoài phạm vi bản làng.
Tuy nhiên, để thổ cẩm thực sự trở thành sinh kế bền vững, cần vượt qua không ít thách thức. Thị trường tiêu thụ vẫn còn hạn chế, cạnh tranh gay gắt với sản phẩm công nghiệp hoặc hàng nhập khẩu. Nhiều nghệ nhân chưa quen với tư duy marketing, chưa biết cách xây dựng thương hiệu hay quảng bá trên các nền tảng thương mại điện tử. Việc thiếu vốn, thiếu đầu ra ổn định cũng ảnh hưởng đến sức sống của nghề.
Chính vì vậy, giải pháp được nhiều chuyên gia đưa ra là phải liên kết chặt chẽ hơn giữa người dân, doanh nghiệp và chính quyền. Nhà nước hỗ trợ chính sách, vốn, đào tạo; doanh nghiệp đảm nhận khâu thiết kế, quảng bá, đưa sản phẩm ra thị trường; còn người dân tập trung giữ nghề, giữ chất lượng. Song song đó, việc gắn kết với du lịch văn hóa – sinh thái sẽ giúp thổ cẩm có thêm “đất sống”.

Việc gắn kết với du lịch văn hóa – sinh thái sẽ giúp thổ cẩm có thêm “đất sống”
Về thị trường, bên cạnh xuất khẩu, ông Trịnh Quốc Đạt – Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, thị trường nội địa mới là nền tảng quan trọng: “Muốn vươn ra thế giới, trước hết sản phẩm phải chinh phục được người tiêu dùng trong nước”. Ông Trịnh Quốc Đạt phân tích, xu hướng tiêu dùng hiện nay ưu tiên sản phẩm xanh, bền vững, mang giá trị văn hóa. Đây chính là lợi thế của thủ công mỹ nghệ Việt. Tuy nhiên, ngành hàng này còn vướng nhiều rào cản: sản xuất nhỏ lẻ, thiếu liên kết, mẫu mã chậm cải tiến. "Cần phát triển các trung tâm thiết kế, hỗ trợ làng nghề đổi mới sản phẩm. Nếu không, chúng ta sẽ mãi quanh quẩn với mẫu cũ, khó cạnh tranh”, ông Đạt nhấn mạnh.
Thổ cẩm của đồng bào Tày không đơn thuần là sản phẩm may mặc, mà còn là “cuốn sử bằng sợi chỉ”, ghi lại lịch sử, tín ngưỡng, thẩm mỹ và cả tâm hồn của cộng đồng. Giữ nghề dệt thổ cẩm tức là giữ một phần bản sắc dân tộc, để không bị hòa tan trong guồng quay hội nhập.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, khi các giá trị truyền thống đứng trước nhiều thách thức, việc bảo tồn và phát huy nghề dệt thổ cẩm càng có ý nghĩa. Nó không chỉ góp phần cải thiện đời sống người dân, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, mà còn là cách khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Để thổ cẩm thực sự trở thành “cầu nối” giữa văn hóa và kinh tế, cần một chiến lược tổng thể: bảo tồn gắn với phát triển; truyền nghề gắn với sáng tạo; quảng bá gắn với thương mại. Khi đó, những tấm vải thổ cẩm Tày sẽ không chỉ hiện diện trong đời sống thường nhật của bà con vùng cao, mà còn có mặt trong không gian rộng lớn hơn, như một đại sứ văn hóa, mang theo niềm tự hào và khát vọng của cả cộng đồng.