Xây dựng vùng an toàn dịch bệnh: Mở lối xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi bứt phá Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi: Vẫn rất khiêm tốn |
Thông tin được ông Dương Tất Thắng – Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đưa ra tại buổi họp giao ban khối chăn nuôi quý II và nghe báo cáo một số kiến nghị của Hội, Hiệp hội ngành hàng chăn nuôi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức sáng 2/4 tại Hà Nội.
Giá heo hơi trung bình quý I/2024 cao hơn khoảng 5 nghìn đồng/kg trong 3 năm trở lại đây
Theo ông Dương Tất Thắng – Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), trong quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi ước đạt 113 triệu USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật là 38,2 triệu USD; sữa và sản phẩm sữa là 36,8 triệu USD.
Toàn cảnh cuộc họp |
Ở chiều ngược lại, trong quý I/2024, ước kim ngạch nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi khoảng 702 triệu USD, giảm 6,7% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật là 336 triệu USD; sữa và sản phẩm sữa là 236 triệu USD.
Trong quý I/2024, nước ta nhập khẩu 4,85 triệu tấn (tương đương 1,65 tỷ USD), tăng 6,4% về khối lượng và giảm 12,3 % về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Một số nguyên liệu nhập khẩu chính: Ngô hạt 2,4 triệu tấn (590 triệu USD), khô dầu các loại 960 nghìn tấn (444 triệu USD), lúa mì 618 nghìn tấn (153 triệu USD), DDGS 201 nghìn tấn (59 triệu USD), cám các loại 133 nghìn tấn (28 triệu USD), thức ăn bổ sung 121 nghìn tấn (169 triệu USD).
Về giá cả các mặt hàng chăn nuôi, ông Dương Tất Thắng cho hay, đầu năm 2024, trên cả 3 miền, giá thịt heo hơi xuất chuồng tăng nhanh so với thời điểm cuối năm 2023. Tính bình quân tháng 1/2024 giá đạt 53 nghìn đồng/kg. Trong tháng 2, giá tăng khoảng 3 - 4 nghìn đồng/kg và tiếp tục tăng trong tháng 3 (giá trung bình tháng 3 đạt 58,1 nghìn đồng/kg).
Hiện nay, giá đang dao động từ 58 - 62 nghìn đồng/kg, tùy từng tỉnh và có sự tăng giảm trái ngược giữa các miền trong vài ngày trở lại đây (trong khi miền Bắc giá có xu hướng giảm nhẹ 1-2 nghìn đồng/kg, thì miền Nam giá tăng tương ứng 1 - 2 nghìn đồng/kg).
So sánh giá heo thịt hơi trung bình quý I trong 3 năm trở lại đây cho thấy, giá trung bình quý I/2024 cao hơn khoảng 5 nghìn đồng/kg (tăng 9,7%) so với cùng kỳ năm 2023. Với giá bán như hiện tại, nhìn chung người chăn nuôi đang có lãi từ 5 - 6 nghìn đồng/kg.
Giá gà thịt hơi lông màu nuôi công nghiệp trung bình từ 46 - 50 nghìn đồng/kg. Nếu như trong tháng 1/2024, chênh lệch về giá của miền Bắc cao hơn so với miền Nam thì đến thời điểm cuối tháng 3, giá 3 miền tương đối đồng nhất dao động từ 45,5 - 47 nghìn đồng. Tính bình quân cả nước trong quý I/2024, giá gà lông màu cao hơn khoảng 11,3 nghìn đồng/kg (tăng 30,8%) so với trung bình quý I/2023.
Giá gà thịt hơi lông trắng xuất chuồng, từ đầu năm giá tăng từ mức 23 lên 33 nghìn đồng/kg, hiện nay dao động từ 29 - 33 nghìn đồng/kg. Tính bình quân cả nước trong Quý I/2024, giá gà lông trắng cao hơn từ 2 - 3 nghìn đồng/kg so với trung bình quý I của năm 2022 và năm 2023.
Giá trứng gà từ 17 - 24 nghìn đồng/10 quả, trong quý có xu hướng tăng nhẹ. So sánh giá heo hơi, gà thịt lông màu nuôi công nghiệp hơi trung bình cùng thời điểm tháng 03 trong 03 năm trở lại đây thì tháng 3/2024 đều có mức giá cao hơn các năm còn lại. Chỉ riêng giá gà thịt hơi lông trắng là giảm.
Giá nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi quý I/2024 có xu hướng giảm
Ông Dương Tất Thắng thông tin thêm, so với cùng kỳ 2023, giá các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chính trong quý I/2024 có xu hướng giảm. Cụ thể, ngô hạt 6.827 đồng/kg (giảm 20,3%), khô dầu đậu tương 14.162 đồng/kg (giảm 4,4%), cám mì 6.026 đồng/kg (giảm 15,1%), cám gạo 5.971 đồng/kg (giảm 11,7%); DDGS 8.054 đồng/kg (giảm 18,3%).
So với giai đoạn cao điểm của giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (vào quý II/2022), giá các nguyên liệu chính như: ngô hạt, DDGS, khô dầu đậu tương đã giảm lần lượt 26,2%; 24% và 8,6%.
Trong khi đó giá các loại thức ăn hỗn hợp chính bình quân trong quý I/2024 đều giảm từ 10,7 - 15,6% tùy loại so với bình quân quý I/2023 (giai đoạn cao điểm của giá thức ăn chăn nuôi thành phẩm), cụ thể: thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho heo 12.087 đồng/kg (giảm 15,6%), thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho gà thịt lông màu 12.090 đồng/kg (giảm 13,1%); thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho gà thịt lông trắng 12.633 đồng/kg (giảm 10,7%).
Nhận định chung trong thời gian tới do nguồn cung nguyên liệu ổn định và giá giảm nên giá thức ăn chăn nuôi thành phẩm trong nước sẽ tiếp tục theo xu hướng giảm, tuy nhiên khó quay trở lại mức giá thời điểm trước dịch.
Nhiệm vụ trọng tâm được Cục Chăn nuôi được đặt ra trong quý II/2024 đó là phối hợp với Cục Thú y và các đơn vị liên quan, các địa phương trong triển khai phòng chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi.
Tăng cường các kênh theo dõi sát diễn biến về nguồn cung, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước và trên thế giới, có biện pháp chỉ đạo kịp thời nhằm giảm thiểu ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi.
Tham gia phối hợp các đơn vị liên quan tiến hành biện pháp kiểm soát chặt chẽ các hoạt động buôn bán, vận chuyển gia súc, gia cầm và các sản phẩm liên quan, nhất là tại các cửa khẩu, đường mòn, lối mở khu vực biên giới. Phối hợp với các đơn vị chức năng có liên quan tiến hành xử lý các vụ việc vi phạm về chất lượng giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi…
Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng thịt heo thế giới năm 2024 đạt 114,2 triệu tấn, giảm 0,9% so năm 2023 do sản lượng ở Trung Quốc, EU và Brazil giảm. Xuất khẩu toàn cầu dự kiến đạt 10,2 triệu tấn, tăng 1,8%. Nhập khẩu sẽ đạt 9,7 triệu tấn, tăng 5,4%. Mức tiêu thụ dự kiến đạt 113,8 triệu tấn, giảm 0,6%. Nguồn cung thịt gia súc, gia cầm vẫn cơ bản được bảo đảm, nhu cầu tiêu thụ không tăng cao khi thời tiết chuẩn bị bước vào giai đoạn nắng nóng, nên dự báo giá các sản phẩm gia súc, gia cầm có khả năng giảm khi bước vào mùa nắng nóng, tiêu thụ chậm. Giá thịt heo tại Trung Quốc được dự báo sẽ phục hồi trong nửa cuối năm nay khi người chăn nuôi chủ động giảm đàn. |