Không có sản phẩm ‘xấu’, chỉ có doanh nghiệp ‘xấu’
Các quốc gia nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đã ban hành quy định pháp luật về gỗ hợp pháp ngày càng nghiêm ngặt. Theo đó, Hoa Kỳ có Đạo luật Lacey; EU có Quy chế gỗ (EUTR) và Quy chế không gây mất rừng (EUDR); Australia có Luật chống khai thác gỗ bất hợp pháp; Nhật Bản có Luật gỗ sạch; Hàn Quốc có Luật sử dụng gỗ bền vững; Anh có Quy chế sử dụng gỗ và sản phẩm gỗ.
Dây chuyền sản xuất tại Công ty CP Woodsland Tuyên Quang. Ảnh. N.H |
Cùng với đó, Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định Đối tác tự nguyện thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) với EU; Thỏa thuận về chống khai thác và thương mại gỗ bất hợp pháp với Hoa Kỳ nhằm cam kết loại bỏ gỗ bất hợp pháp ra khỏi chuỗi cung ứng. EU, Hoa Kỳ yêu cầu cơ quan chức năng của Việt Nam phải xác minh từng lô hàng trước khi xuất khẩu sang các thị trường này để đảm bảo là gỗ hợp pháp.
Ước tính hàng năm, Việt Nam xuất khẩu hàng triệu lô hàng gỗ và sản phẩm gỗ. Cơ quan chức năng của Việt Nam không thể xác minh từng lô hàng gỗ và sản phẩm gỗ trước khi xuất khẩu. Việc này sẽ ảnh hưởng đến việc kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ.
Hiệp định VPA/FLEGT giữa Việt Nam và EU nhất trí rằng, thay cho việc xác minh từng ‘lô gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu’ sang EU thì Việt Nam chuyển sang xác minh sự tuân thủ của “doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng” để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của hệ thống Đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS) và không ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Bà Nguyễn Tường Vân - Chuyên gia VPA/FLEGT (Thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản) - thông tin, việc phân loại doanh nghiệp nhằm đánh giá mức độ rủi ro của các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng gỗ của Việt Nam về việc tuân thủ pháp luật theo yêu cầu của Hệ thống VNTLAS. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp xác minh xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, cấp phép FLEGT cho lô hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu sang EU một cách phù hợp, hiệu quả và kịp thời. Việc phân loại giúp giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.
Theo Nghị định 102/2020/NĐ-CP về Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam và Thông tư 21/2021/TT-BNNPTNT quy định phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ, đối tượng phân loại doanh nghiệp là doanh nghiệp có hoạt động chế biến đồng thời với hoạt động xuất khẩu gỗ. Quy định này có hiệp lực từ 1/5/2022.
Tuy nhiên, theo Nghị định 120/2024/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 102/2020/NĐ-CP quy định Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam đã mở rộng đối tượng phân loại doanh nghiệp gồm: Doanh nghiệp trồng, khai thác và cung cấp gỗ rừng trồng, chế biến, nhập khẩu và xuất khẩu gỗ. Ước tính (theo số liệu năm 2022) đối tượng phân loại doanh nghiệp theo Nghị định 120/2020/NĐ-CP (có hiệu lực thi hành từ 15/11/2024) là 3.921 doanh nghiệp (trong đó có 1.663 doanh nghiệp là đối tượng phân loại theo Nghị định 102/NĐ-CP).
Trong phân loại, doanh nghiệp đạt tiêu chí Nhóm I là doanh nghiệp tuân thủ pháp luật trong việc thành lập và hoạt động doanh nghiệp; tuân thủ pháp luật về nguồn gốc gỗ hợp pháp… Sản phẩm gỗ hoàn chỉnh hoặc lâm sản của doanh nghiệp nhóm I khi mua bán, chuyển giao quyền sở hữu, vận chuyển không phải xác nhận Bảng kê lâm sản.
Ông Trịnh Xuân Dương - Chi hội trưởng Chi hội Gỗ dán Việt Nam (Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam) - thông tin, mỗi năm, có hàng triệu container lô hàng gỗ và sản phẩm gỗ cần kiểm tra trước khi thông quan, cần rất nhiều nhân lực, nguồn lực để kiểm tra... Ngành gỗ hiện nay có hơn 1.600 doanh nghiệp chế biến gỗ và xuất khẩu, khi đánh giá số lượng doanh nghiệp này sẽ nhanh hơn so với đánh giá từng container hàng.
"Như vậy, việc phân loại doanh nghiệp có tác dụng là đánh giá về sự uy tín của doanh nghiệp, bởi nguyên tắc khi tham gia hội nhập là đánh giá sản phẩm nhưng sản phẩm đó tốt hay xấu là do doanh nghiệp chứ không phải do sản phẩm; đồng thời tiết kiệm nhân lực, nguồn lực trong quá trình kiểm tra, tạo điều kiện doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa nhanh hơn" - ông Dương nói.
Khó khi bắt tay vào thực hiện
Nghị định 120/2024/NĐ-CP ngày 30/9/2024 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 102 khi làm thủ tục Hải quan để xuất khẩu các lô hàng; Nghị định 102/2020/NĐ-CP về Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam; Thông tư 21/2021/TT-BNNPTNT ngày 29/12/2021 quy định phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ; Quyết định số 1303/QĐ-BNN-TCLN, ngày 13/4/2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc công bố thủ tục hành chính, sửa đổi bổ sung Quy định phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ đều hướng tới mục tiêu đón trước yêu cầu của thị trường cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu ngành gỗ.
Tuy nhiên, khi bắt tay vào triển khai, doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn. Chia sẻ thực tế từ câu chuyện của doanh nghiệp mình, bà Đặng Thị Thái - Phó Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Thanh Hùng (Hà Nội) - cho hay, nhận thức được những lợi ích của việc phân loại doanh nghiệp khi làm thủ tục hải quan nếu doanh nghiệp được đánh giá thuộc Nhóm I nên công ty nộp hồ sơ và rất tự tin vì không chỉ đáp ứng đủ các điều kiện về phòng cháy chữa cháy, đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường… mà công ty là một trong những đơn vị đã tham gia đánh giá thử nghiệm trước khi Thông tư 21 ra đời.
“Chúng tôi có cả bảo hiểm phòng cháy, chữa cháy; thành lập đội phòng cháy, chữa cháy, có báo cáo đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường cũng đã làm xong, thuế cũng đã nộp đủ ở Hà Nội và 2 chi nhánh”, bà Đặng Thị Thái chia sẻ.
Tuy nhiên, dù đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nhưng doanh nghiệp này đã bị từ chối sau 20 ngày nộp hồ sơ với lý do, doanh nghiệp mới chỉ nộp báo cáo hàng quý cho Hạt kiểm lâm Đông Anh (Chi cục Kiểm lâm Hà Nội) còn chưa nộp báo cáo quý cho Hạt kiểm lâm Bắc Ninh, Hưng Yên theo quy định.
“Phía Hạt kiểm lâm Đông Anh cũng gợi ý doanh nghiệp nên làm phân loại này tại Hưng Yên hay Bắc Ninh” - bà Đặng Thị Thái chia sẻ và cho biết, thực tế trước khi làm phân loại doanh nghiệp tại Hà Nội, doanh nghiệp cũng đã thử làm tại Bắc Ninh và Hưng Yên và bị từ chối, vì doanh nghiệp có trụ sở chính ở Hà Nội, tất cả bảo hiểm xã hội, hoạt động công đoàn, nộp phí công đoàn cũng diễn ra tại Hà Nội.
Dù không đạt được kết quả như kỳ vọng nhưng doanh nghiệp không bỏ cuộc. "Chúng tôi sẽ nộp báo cáo quý cho Hạt kiểm lâm Bắc Giang và Hưng Yên, sang năm sẽ tiếp tục nộp lại hồ sơ tại Hà Nội xem có bị từ chối nữa hay không?”, bà Đặng Thị Thái cho hay.
Còn theo ông Phạm Văn Thành - Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và lâm sản Thanh Hóa, với các doanh nghiệp dăm gỗ hiện tại chưa yêu cầu phân loại doanh nghiệp, tuy nhiên, xu thế, các doanh nghiệp cùng phải tính đến khi Nghị định 120/2024/NĐ-CP có hiệu lực.
Về cơ bản, các doanh nghiệp đã nắm được quy trình thủ tục phân loại doanh nghiệp. Các thông tin là tương đối rõ ràng, tuy nhiên, theo ông Thành, các doanh nghiệp đang băn khoăn về tiêu chí "không vi phạm đến mức xử lý trên 25 triệu đồng", bởi hiện nay cơ quan thuế chỉ công khai danh sách các doanh nghiệp vi phạm lớn về thuế, nhưng khi thanh tra, kiểm tra phát hiện vi phạm, doanh nghiệp có thể bị phạt với mức trên 25 triệu đồng, vậy lúc đó doanh nghiệp có bị đánh tụt hạng không?
Trong khi đó, một số doanh nghiệp cho biết, hồ sơ lâm sản, phân loại doanh nghiệp, doanh nghiệp cũng rất ‘tù mù’, làm theo những cái mình hiểu và theo các đơn vị tư vấn chia sẻ. Một số doanh nghiệp lại cho rằng, doanh nghiệp không có ý định thực hiện phân loại doanh nghiệp bởi việc xuất khẩu vẫn tốt, phía đối tác cũng không yêu cầu, trong khi các yêu cầu thủ tục phân loại đang phát sinh thời gian, chi phí của doanh nghiệp... Trong khi đó, không ít doanh nghiệp cùng tỏ ra băn khoăn về việc doanh nghiệp được xếp Nhóm I thì khi làm chứng nhận xuất xứ (C/O) có phải xác minh lại không? Cơ quan thuế có truy suất đến F0, F1, F2… không?
Giải thích rõ hơn về quyền lợi doanh nghiệp, ông Phạm Văn Thái - Phòng Kiểm tra xử lý vi phạm - Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) - cho biết việc phân loại doanh nghiệp hay không phân loại thì hồ sơ xuất khẩu như nhau (Điều 19, Thông tư 26/2022/TT-BNNPTNT), chỉ khác là doanh nghiệp được phân loại nhóm I được tự xác nhận bảng kê; doanh nghiệp thuộc nhóm II do cơ quan hải quan xác nhận.
Trong phân loại, doanh nghiệp đạt tiêu chí nhóm I phải đạt cả 4 tiêu chí: Tuân thủ pháp luật trong việc thành lập và hoạt động ít nhất 1 năm kể từ ngày đăng ký thành lập doanh nghiệp; Tuân thủ quy định pháp luật về nguồn gốc gỗ hợp pháp theo Quy định của Nghị định 102/2020/NĐ-CP và quy định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về quản lý truy xuất nguồn gốc lâm sản (nay là Thông tư 26/2022/TT-BNNPTNT); Tuân thủ chế độ báo cáo theo quy định tại Nghị định 102/2020/NĐ-CP và lưu hồ sơ gốc theo quy định của pháp luật; Không vi phạm đến mức xử lý theo quy định tại Nghị định 102/2020/NĐ-CP (trên 25 triệu đồng). Doanh nghiệp không đạt 1 trong 4 tiêu chí này thuộc doanh nghiệp Nhóm II. |
Bài 2: Phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ - Cần có lộ trình phù hợp