
Khi tiết trời bắt đầu se lạnh, những vạt nắng vàng cuối chiều trải dài trên triền đồi Đồng Hỷ, La Hiên (Thái Nguyên), người ta biết mùa hồng da tre đã về. Khác hẳn hồng ngâm đỏ cam, cũng chẳng giống hồng đỏ ngọt sắc, hồng da tre mang một nét đẹp riêng: quả xanh mướt khi còn non, căng mọng, rồi chuyển dần sang màu vàng óng khi chín. Khi cắn thử, vị ngọt thanh mát, giòn sần sật lan khắp khoang miệng, để lại dư âm khó phai.
Không quá lời khi nhiều người gọi đây là loại quả “quý tộc” trong số các sản vật mùa thu. Hồng da tre vừa hiếm, vừa tinh tế, lại gắn với vùng đất trung du đặc biệt, nơi khí hậu mát mẻ, đất đai pha cát, phù hợp để cây phát triển chậm rãi và tích tụ dưỡng chất. Đây cũng là sản phẩm chủ lực của đồng bào dân tộc thiểu số Thái Nguyên.

Thứ quả ngọt mềm, giòn như thạch nhưng lại có cái tên khá xù xì là “da tre”. Những người dân trồng loại quả này lý giải, sở dĩ hồng có tên gọi da tre vì chúng có lớp vỏ cứng, xanh rắn rỏi như thân cây tre. Khác với hồng ngâm, hồng đỏ hay hồng Mộc Châu thường gặp trên thị trường, quả hồng da tre to và chắc, 5 đến 6 quả đã đủ một cân, cầm lên tay có cảm giác cứng cáp.
Hồng da tre khi đến độ già sẽ được hái, rồi ủ để chín tự nhiên. Hồng được úp ngược núm quả xuống, đến khi lớp vỏ da tre trong veo dần ra, cầm mềm tay là báo hiệu quả hồng bắt đầu chín. Khi chín, ruột hồng trong như thạch, mềm mịn nhiều nước, ngọt lịm, vị thơm ngọt đậm, không nhão và xơ như hồng đỏ, ăn giòn sần sật chỉ cần bổ đôi quả hồng rồi lấy thìa xúc ăn thì bao nhiêu cũng hết.

Người dân địa phương kể rằng, giống hồng da tre đã bén rễ trên đất Thái Nguyên từ hàng chục năm trước, nhiều nhất là ở vùng Đồng Hỷ, La Hiên. Vậy mà từng có thời chúng bị coi rẻ, bán chỉ vài nghìn đồng một cân, nhiều hộ vì thế đã chặt bỏ để thay thế bằng giống cây khác cho thu nhập cao hơn. Hiện nay, ước tính toàn tỉnh chỉ còn khoảng 500 cây hồng trên 10 năm tuổi, tập trung ở các xã Đồng Hỷ, La Hiên, Nam Hòa… Chính sự ít ỏi ấy lại khiến hồng da tre trở thành của hiếm.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện Thái Nguyên có khoảng 500 cây hồng da tre trên 10 năm tuổi, tập trung nhiều tại các xã La Hiên, Nam Hòa, Đồng Hỷ. Gia đình ông Lê Văn Quỳnh (tổ dân phố Việt Cường, thị trấn Trại Cau) hay gia đình anh Vũ Văn Dương (xóm Xuân Hòa, xã La Hiên) đều sở hữu những vườn hồng cổ thụ đã trên 20 năm tuổi. Các hộ này vẫn kiên trì chăm sóc cây theo phương thức truyền thống: dùng phân chuồng, phân hữu cơ, hạn chế tối đa thuốc bảo vệ thực vật, nhờ vậy quả giữ được độ ngọt thanh, ít bị thối hỏng.

Trước đây, đối với bà con dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ… cây hồng da tre thường chỉ được xem là cây ăn quả phụ trong vườn nhà. Bởi hồng khó bảo quản, chín nhanh, dễ hỏng, trong khi chè, keo hay cây lâm nghiệp khác lại đem lại thu nhập ổn định hơn. Có thời điểm, không ít hộ đã chặt bỏ hồng để trồng cây ngắn ngày, khiến diện tích loại quả này ngày càng hiếm.
Thế nhưng, vài năm gần đây, khi thị trường bắt đầu “săn lùng” hồng da tre như một đặc sản hiếm, giá trị của nó đã được nhìn nhận lại. Bà con dân tộc thiểu số ở vùng cao Thái Nguyên dần ý thức rằng hồng da tre không chỉ là loại quả để ăn trong gia đình, mà có thể mang lại nguồn thu nhập đáng kể.

Chị Phạm Thị Thắm, một hộ dân xã La Hiên, chia sẻ: “Nhà tôi có vài cây hồng da tre, mỗi năm thu hơn một tạ quả. Bán lẻ tại chợ hay cho khách quen, thu nhập vài chục triệu đồng. Cây cổ thụ ít phải chăm sóc, nếu làm đúng kỹ thuật thì năng suất khá ổn định”.
Với nhiều gia đình dân tộc thiểu số, vài chục triệu đồng mỗi mùa hồng là khoản thu không nhỏ, góp phần trang trải học hành cho con cái, sửa sang nhà cửa hay tái đầu tư sản xuất.
Dù có giá trị, song việc trồng và tiêu thụ hồng da tre hiện vẫn còn nhiều trở ngại. Trước hết, giống cây ngày càng hiếm, nhiều cây già cỗi, sản lượng ít. Việc nhân giống mới đòi hỏi kỹ thuật và chi phí cao.

Thứ hai, do địa hình vùng dân tộc thiểu số chủ yếu là đồi dốc, xa trung tâm, giao thông chưa thuận tiện, nên việc thu hái và vận chuyển gặp nhiều khó khăn. Hồng lại dễ dập nát, thời gian chín ngắn, nếu không có kỹ thuật bảo quản thì tỷ lệ hao hụt rất lớn.
Thứ ba, phần lớn bà con dân tộc thiểu số vẫn sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chưa có sự liên kết thành chuỗi. Điều này khiến quả hồng khó tiếp cận được những thị trường lớn, giá bán phụ thuộc nhiều vào thương lái.

Trong bối cảnh đó, vai trò của hợp tác xã (HTX) càng trở nên quan trọng. Thái Nguyên hiện có hơn 800 HTX nông nghiệp, thu hút hàng chục nghìn hộ dân tham gia. Nhiều HTX đã trở thành điểm tựa cho đồng bào dân tộc thiểu số khi liên kết tiêu thụ chè, rau an toàn, cây ăn quả.
Với hồng da tre, tuy chưa có HTX chuyên ngành, nhưng đã có một số dự án thí điểm. Đơn cử như dự án trồng 2.000 cây hồng da tre trên diện tích 3ha tại xã Đồng Hỷ, do Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên hỗ trợ. Đây được xem là bước đi ban đầu để hình thành vùng nguyên liệu tập trung, có sự tham gia của nhà khoa học, HTX và người dân.
Nếu có HTX đứng ra tổ chức sản xuất, bà con dân tộc thiểu số sẽ nhận được nhiều lợi ích. Cụ thể, được tập huấn kỹ thuật từ khâu chăm sóc, thu hoạch, đến bảo quản sau thu hoạch. Bên cạnh đó, được hỗ trợ vốn và vật tư, giúp bà con yên tâm đầu tư, không lo bị “đứt gãy” vốn.

HTX cũng sẽ đóng vai trò liên kết tiêu thụ, làm đầu mối kết nối với doanh nghiệp, siêu thị, sàn thương mại điện tử. Đồng thời, xây dựng thương hiệu, tạo nhãn hiệu tập thể “Hồng da tre Thái Nguyên”, mở đường tham gia chương trình OCOP.
Chị Triệu Thị Út, một tiểu thương chuyên thu mua hồng, cho biết: “Nhiều khi khách ở Hà Nội, Hải Phòng đặt hàng, tôi phải đi khắp các xã mới gom đủ. Nếu có HTX đứng ra gom sản lượng, đóng gói đồng bộ thì việc bán hàng thuận lợi hơn, giá cả cũng ổn định hơn cho bà con”.
Để nâng tầm hồng da tre, nhiều chuyên gia cho rằng cần gắn loại quả này với phát triển du lịch cộng đồng. Vào mùa hồng, khách có thể đến tham quan, trải nghiệm hái quả, thưởng thức tại vườn, kết hợp với tìm hiểu văn hóa Tày, Nùng, Dao. Đây là cách làm vừa quảng bá sản phẩm, vừa tăng thêm thu nhập cho bà con.
Ngoài ra, cần có sự đầu tư bài bản vào giống cây. Việc nhân giống chuẩn, đảm bảo chất lượng sẽ giúp mở rộng diện tích trồng mà vẫn giữ nguyên hương vị truyền thống.
Cùng với đó, khâu bảo quản và chế biến sâu cũng rất quan trọng. Nếu chỉ bán quả tươi, giá trị không cao và dễ hao hụt. Ngược lại, nếu có sản phẩm chế biến như mứt hồng, hồng sấy dẻo, nước ép hồng… thì hồng da tre sẽ có cơ hội vươn xa, tham gia vào các kênh phân phối rộng hơn.
Điều quan trọng hơn cả, hồng da tre không chỉ là một loại quả, mà còn là một phần ký ức, là hồn cốt của vùng đất trung du. Với bà con dân tộc thiểu số, cây hồng da tre gắn liền với nếp sống, với bữa cơm mùa thu. Giữ lại hồng da tre chính là giữ lại một phần bản sắc của quê hương.

Nếu có chiến lược bài bản, hồng da tre sẽ không còn chỉ là thức quả hiếm được vài gia đình giữ lại trong vườn, mà trở thành sản phẩm OCOP, mang thương hiệu địa phương, góp phần nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số Thái Nguyên.
Hồng da tre Thái Nguyên – thứ quà “quý tộc” của mùa thu không chỉ mang lại hương vị ngọt lành, mà còn mở ra cơ hội phát triển kinh tế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số. Với sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền, các nhà khoa học, HTX và doanh nghiệp, loại quả này hoàn toàn có thể trở thành thương hiệu mạnh, góp phần đưa nông sản Thái Nguyên vươn xa.
Khi những vườn hồng da tre trên sườn đồi La Hiên, Đồng Hỷ tiếp tục được bảo tồn và nhân rộng, đó cũng là lúc mùa thu Thái Nguyên thêm trọn vẹn, không chỉ bởi sắc vàng trên cành, mà còn bởi nụ cười no ấm của những người dân nơi đây.
Mỗi độ thu sang, trên những triền đồi Võ Nhai, Đồng Hỷ hay Phú Lương, hồng da tre Thái Nguyên lại trĩu trịt quả, mang theo sắc vàng óng ả quyện cùng hương núi rừng. Không đỏ au rực rỡ, không ngọt gắt như nhiều giống hồng khác, hồng da tre lặng lẽ quyến rũ bởi vị giòn thanh, mát lành, để rồi ai từng nếm thử đều khó quên. Với bà con các dân tộc ở Thái Nguyên, mùa hồng không chỉ là mùa thu hoạch mà còn là mùa của sum vầy, của niềm tin gửi gắm vào từng giỏ hồng được đưa ra chợ phiên hay lên sàn thương mại điện tử. Từ những vườn hồng chăm chút bằng mồ hôi và tình yêu đất, hồng da tre nay đã trở thành đặc sản được nhiều nơi biết đến, góp phần làm giàu quê hương.