
Hoàn thiện tiêu chuẩn môi trường: Tránh tăng chi phí
Còn nhiều bất cập
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng được 68 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) và 92 Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) trong lĩnh vực môi trường. Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, giai đoạn 2021 - 2025, Cục Môi trường được giao xây dựng thêm 31 QCVN và 6 TCVN, trên cơ sở kế thừa các quy chuẩn đã ban hành, đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt từ Hàn Quốc.

Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về môi trường. Ảnh minh họa
TS. Lương Duy Hanh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết, các TCVN chủ yếu được hình thành từ việc rà soát hệ thống tiêu chuẩn ngành, quy phạm và quy định kỹ thuật đã áp dụng nhiều năm, sau đó biên soạn, cập nhật và chuyển đổi thành tiêu chuẩn quốc gia. Nhóm TCVN về môi trường hiện tập trung vào chất lượng môi trường xung quanh, quản lý chất thải và một số lĩnh vực khác.
Với QCVN, theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, hệ thống hiện có bao gồm 6 nhóm: chất lượng môi trường xung quanh; chất thải; quản lý chất thải; quản lý phế liệu nhập khẩu; giới hạn các chất ô nhiễm khó phân hủy trong nguyên, nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm và thiết bị; cùng các quy chuẩn khác theo yêu cầu bảo vệ môi trường. Quyết định số 2587/QĐ-BTNMT (16/11/2020) về hoàn thiện hệ thống QCVN giai đoạn 2020 – 2022 được coi là bước quan trọng nhằm xây dựng công cụ quản lý môi trường phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Thực tế, hệ thống TCVN và QCVN đã góp phần quan trọng trong quản lý, bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên, hướng tới kinh tế xanh. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: chưa theo kịp nhu cầu thực tiễn, kế hoạch dài hạn chưa tốt, nhiều tiêu chuẩn quan trọng chưa được rà soát hoặc bổ sung. Một số QCVN liên quan đến chất lượng sản phẩm, công nghệ có nguy cơ ô nhiễm cao (như lò đốt chất thải, lò hơi sử dụng chất thải) chưa được nghiên cứu.
Hiện nay, phần lớn tiêu chuẩn và quy chuẩn được xây dựng bằng phương pháp tự nghiên cứu, tham khảo tài liệu quốc tế, nhưng chưa chuyển mạnh sang tiếp nhận hoàn toàn các tiêu chuẩn quốc tế. Nguồn lực xây dựng còn phân tán, thiếu chuyên gia, hạn chế kinh phí và thiếu cơ chế huy động xã hội. TCVN lại chủ yếu viện dẫn tiêu chuẩn quốc tế (ISO, ASTM, SMEWW…), gây khó khăn cho áp dụng trực tiếp. Đáng chú ý, 100% QCVN môi trường đều chậm tiến độ ban hành.
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, Phó Tổng Thư ký VCCI, nhận định hệ thống QCVN, TCVN và định mức kinh tế – kỹ thuật là công cụ pháp lý quan trọng trong kiểm soát ô nhiễm, định hướng công nghệ và đảm bảo hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, với doanh nghiệp, đây cũng là yếu tố tác động trực tiếp đến chi phí tuân thủ, năng lực cạnh tranh và định hướng đầu tư dài hạn.
Trong bối cảnh yêu cầu bảo vệ môi trường ngày càng cao, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn vừa là thách thức vừa là cơ hội. Một hệ thống đồng bộ, khả thi sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững. Ngược lại, sự chậm trễ và bất cập sẽ tiếp tục là điểm nghẽn trong cả quản lý nhà nước lẫn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việt Nam nên tham khảo tiêu chuẩn quốc tế thay vì xây dựng lại từ đầu
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS. TS Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế và thương mại quốc tế, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh ba điểm chính trong việc hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn.
Thứ nhất, nếu ban hành quá nhiều quy chuẩn, tiêu chuẩn nhưng hiệu quả mang lại không tương xứng, chi phí tuân thủ sẽ tăng thêm khoảng 30%, khiến doanh nghiệp Việt Nam giảm sức cạnh tranh quốc tế. Thứ hai, trong điều kiện còn hạn chế, Việt Nam nên chọn lọc và áp dụng những thực tiễn tốt nhất từ các quốc gia đã có kinh nghiệm hàng chục năm, thay vì phải xây dựng lại từ đầu, vừa tốn kém vừa mất thời gian.
Thứ ba, cần thường xuyên cập nhật quy chuẩn, tiêu chuẩn, mạnh dạn thay thế cái cũ bằng cái mới hiện đại, vừa giảm gánh nặng cho cơ quan quản lý, vừa tạo thuận lợi cho người thực thi.
“Vấn đề không chỉ là hoàn thiện quy chuẩn, tiêu chuẩn, mà còn cần đồng bộ với quy trình đánh giá hợp chuẩn và định mức kinh tế – kỹ thuật. Ở góc độ thương mại, cần tiết kiệm chi phí bằng cách tối ưu hóa. Nếu ban hành một quy chuẩn mới thì nên loại bỏ hai cái cũ, hướng đến giảm ít nhất 30% chi phí tuân thủ”, ông Nguyễn Thường Lạng nói.
Ngoài ra, PGS. TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu lớn phải có trách nhiệm tham gia xây dựng quy chuẩn, thay vì chỉ để cơ quan quản lý gánh vác. Nếu thiếu tiếng nói từ khối này, các tiêu chuẩn do Việt Nam đề xuất có nguy cơ tụt hậu so với thực tiễn quốc tế.
Trước yêu cầu ngày càng cao về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, việc hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và định mức kinh tế – kỹ thuật vừa là thách thức, vừa là cơ hội. Từ góc nhìn doanh nghiệp, một hệ thống đồng bộ, minh bạch và khả thi sẽ giúp giảm chi phí tuân thủ, nâng cao sức cạnh tranh và chủ động hơn trong đầu tư gắn với mục tiêu xanh. Ngược lại, những bất cập nếu chậm được tháo gỡ sẽ trở thành điểm nghẽn cho cả hoạt động sản xuất kinh doanh lẫn hiệu lực quản lý nhà nước.