Những người đang bị bỏ lại phía sau
Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy, so với phụ nữ dân tộc Kinh, phụ nữ DTTS đang phải đối mặt với nhiều sự phân biệt đối xử, bất bình đẳng kép - cả về dân tộc và về giới. Điều này ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận, tham gia và thụ hưởng các chính sách của chị em ở hầu hết tất cả các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội như: Kinh tế, giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và hoạt động chính trị.
Phụ nữ DTTS hầu hết vẫn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp với các công việc đơn giản, thu nhập thấp hoặc không có thu nhập |
Những con số được bà Nguyễn Thị Thu Hà - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cho biết tại Hội thảo “Thách thức và giải pháp để phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau” khiến nhiều người không khỏi giật mình. Đến nay, vẫn còn tới 23,7% phụ nữ DTTS kết hôn dưới tuổi 18, 30,7% phụ nữ DTTS sinh con tại nhà (phụ nữ Kinh là 0,5%), dẫn đến tỷ lệ tử vong bà mẹ ở một số nhóm DTTS (Mông, Thái, Ba Na, Tày, Dao, Nùng) cao gấp 4 lần so với phụ nữ Kinh - Hoa. Đáng lo ngại là bạo lực tinh thần đối với phụ nữ DTTS do người chồng gây ra cũng cao hơn gần 1,7 lần so với tỷ lệ chung cả nước. Thậm chí, 58,6% phụ nữ DTTS trong độ tuổi từ 15 - 49 cho rằng chồng đánh đập vợ vì các lý do khác nhau là chấp nhận được…
Bên cạnh đó, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ là người DTTS, nhưng đến nay, mới chỉ có chưa đến 25% phụ nữ DTTS là cán bộ công chức trong các tổ chức chính trị xã hội. Trong đó, chị em phụ nữ DTTS giữ vị trí trưởng các phòng, ban vẫn đếm trên đầu ngón tay. Số lượng phụ nữ DTTS tham gia các tổ chức chính trị - xã hội ít, đồng nghĩa với việc chị em ít có cơ hội để góp ý xây dựng, thực hiện và phản biện chính sách. Đây cũng là nguyên nhân khiến nhiều chính sách dành cho phụ nữ DTTS chưa thực sự đáp ứng được nguyện vọng và không mang lại hiệu quả cao.
Lý do khiến phụ nữ DTTS luôn yếu thế
Với suy nghĩ, phụ nữ là để sinh con, loanh quanh trong nhà lo nội trợ, chăm sóc gia đình… nên từ nhiều đời nay, việc đến trường học chữ vẫn là chuyện không được xem trọng đối với phụ nữ DTTS. Ngay cả khi các chính sách hỗ trợ, khuyến khích học tập đến tận các thôn, xóm nghèo vùng DTTS thì việc ưu tiên đi học vẫn dành cho các bé trai trước. Tính đến hết năm 2017, mới có 33% phụ nữ DTTS đi học Trung học phổ thông đúng tuổi, có tới 35,6% phụ nữ DTTS không biết đọc, biết viết…
Từ chỗ mù chữ, không biết tiếng phổ thông, phụ nữ DTTS không có cơ hội tiếp cận với thông tin, tri thức, kỹ thuật… dẫn đến trình độ chuyên môn thấp, ngại giao tiếp. Đa phần phụ nữ DTTS ít được tham gia các khóa tập huấn, nâng cao năng lực; ít đứng tên vay vốn tín dụng ưu đãi; hạn chế tham gia và hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất ở địa phương. Quanh quẩn ở bản, làng, người phụ nữ DTTS nhiều đời trói mình vào vòng luẩn quẩn: Lấy chồng sớm, sinh con nhiều, vất vả, đói khổ triền miên… Một số chị em sống ở các thôn, bản phát triển nay đã mạnh dạn tham gia vào thị trường lao động nhưng chủ yếu làm các công việc giản đơn và hầu hết làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Đáng buồn hơn cả là từ những hạn chế của bản thân, một bộ phận phụ nữ DTTS chưa sẵn sàng tâm thế để được trao quyền bình đẳng, chưa mạnh dạn vươn lên trong học tập và phát triển sinh kế, cải thiện việc làm và thu nhập. Đây cũng là lý do để con đường đến bình đẳng giới của phụ nữ DTTS vẫn còn nhiều gian nan.
Nữ giới người DTTS hiện có 6,66 triệu người – chiếm 49,8% dân số người DTTS. Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động nữ DTTS đang thấp và thấp hơn đáng kể so với lực lượng lao động nam DTTS và phụ nữ Kinh. Rào cản gốc rễ là tình trạng mù chữ, tái mù chữ, không giao tiếp được bằng tiếng phổ thông. |