Gạo Việt Nam: Tăng tốc xuất khẩu, tìm dư địa bền vững tại EU

Giữ vững đà tăng trưởng xuất khẩu, ngành gạo Việt Nam đang chuyển hướng mạnh sang phân khúc cao cấp và thị trường EU.

Từ “thần tốc” sang chinh phục thị trường cao cấp

Theo số liệu từ Cục Hải quan, tính đến hết ngày 15/8/2025, Việt Nam đã xuất khẩu gần 5,88 triệu tấn gạo, mang về hơn 3 tỷ USD. Giá xuất khẩu bình quân đạt gần 512 USD/tấn, con số thể hiện rõ sự chuyển dịch từ mục tiêu số lượng sang nâng cao giá trị. EU là một trong những thị trường trọng điểm của gạo Việt Nam.

Tính đến hết ngày 15/8/2025, Việt Nam đã xuất khẩu gần 5,88 triệu tấn gạo, mang về hơn 3 tỷ USD. Ảnh minh họa

Tính đến hết ngày 15/8/2025, Việt Nam đã xuất khẩu gần 5,88 triệu tấn gạo, mang về hơn 3 tỷ USD. Ảnh minh họa

Thông tin về thị trường nông sản nói chung và gạo nói riêng, ông Trần Văn Công - Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại thị trường EU cho biết, năm 2024, Việt Nam xếp vị trí thứ 12 đối tác lớn xuất khẩu nông sản vào EU (xếp vị trí cao hơn so với Thái Lan xuất khẩu nông sản vào EU). 6 tháng 2025 kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản sang EU đạt 4,17 tỷ USD, tăng 50% với cùng kỳ.

Riêng với mặt hàng gạo, tổng dung lượng thị trường gạo EU hiện khoảng 3,3 triệu tấn, trong đó, tiêu thụ cho người và gia súc khoảng 2,56 triệu tấn, xuất khẩu sang nước thứ 3 là 320 nghìn tấn và dự trữ khoảng 400 nghìn tấn.

Nhu cầu gạo tại thị trường EU đang tăng đều qua các năm. Sản lượng nội khối của EU ổn định ở mức 1,7 - 1,8 triệu tấn mỗi năm và đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tiêu thụ trong khu vực. Hng năm, EU nhập khẩu 1,7 - 2,2 triệu tấn. EU chủ yếu nhập khẩu gạo đã xát toàn bộ hoặc sơ bộ, đã hoặc chưa đánh bóng hạt hoặc hồ (mã HS 100630) với tỷ trọng chiếm gần 50% trong tổng nhập khẩu; tiếp theo là các sản phẩm như gạo lứt; tấm và thóc.

Quy định EU2021/760 quy định hướng dẫn phân bổ và thủ tục nhập khẩu gạo từ Việt Nam trong khuôn khổ Hiệp định EVFTA. Theo đó, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo, thuế suất 0%, trong đó có 20.000 tấn gạo chưa xay xát, 30.000 tấn gạo xát trắng thường mã30.000 tấn gạo thơm mã. Sản phẩm chế biến từ gạo thuế suất 0%. Thuế suất ngoài hạn ngạch MFN đối gạo, EU quy định mức thuế từ 65 Euro/tấn đối với tấm, các loại gạo khác 175 Euro/tấn.

Trong khuôn khổ thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu Âu (EVFTA) đang triển khai, hiện nay Việt Nam có 9 giống gạo thơm được hưởng ưu đãi thuế trong hạn ngạch khi xuất khẩu sang EU, bao gồm: Jasmine85, ST5, ST20, Nàng Hoa 9, VĐ20, RVT, OM4900, OM5451 và Tài nguyên Chợ Đào.

Năm 2025, giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo có xu hướng giảm sau một thời gian dài tăng trưởng vượt bậc trong năm 2024. Giá gạo xuất khẩu bình quân giảm so với năm 2024 do tồn kho cao tại Philippines và Indonesia, cạnh tranh với các nước sản xuất lớn như Ấn Độ, Thái Lan. Thêm vào đó, Philippines, thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần trên 40% kim ngạch xuất khẩu mới có lệnh ngừng nhập khẩu gạo trong vòng 60 ngày kể từ ngày 01/9/2025 nhằm bảo vệ sản xuất nội địa. Đây có thể sẽ là yếu tố tác động trong ngắn hạn khi các hợp đồng bị tạm dừng, gây dư cung và giảm giá trị xuất khẩu.

Trong bối cảnh thị trường xuất khẩu gạo nhiều biến động, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt trọng tâm tiếp tục duy trì thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng ra các thị trường tiềm năng khác. Bên cạnh đó, nghiên cứu chuyển dịch mạnh sang các thị trường EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore (đối với các sản phẩm chế biến như bún, mì, nui, phở); tìm giải pháp giảm chi phí logistics để mở rộng sang các thị trường tiềm năng Ghana, Bờ Biển Ngà và UAE với chủng loại gạo thơm và gạo trắng.

Xây thương hiệu, chìa khóa để gạo Việt Nam vững bước vào EU

Mặc dù thị trường nội địa là chủ lực, tuy nhiên, Công ty Cổ phần Kinh doanh Chế biến Nông sản Bảo Minhvẫn dành 10 - 15% sản lượng cho xuất khẩu, tập trung vào các dòng cao cấp như Japonica và ST25. Các thị trường chính của công ty là châu Âu, bao gồm Đức và Hà Lan.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, bà Bùi Thị Hạnh Hiếu - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Kinh doanh Chế biến Nông sản Bảo Minh cho biết, trên bình diện quốc gia, Việt Nam đang chuyển dịch mạnh mẽ sang xuất khẩu gạo có giá trị cao.  Trong 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan, trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Ấn Độ. Chính phủ cũng đã có những chỉ đạo quyết liệt nhằm duy trì và củng cố thành tích này, yêu cầu các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn để thực hiện xuất khẩu "thần tốc". Một số loại gạo đặc sản của Việt Nam đã được xuất khẩu sang châu Âu với giá trên 1.200 USD/tấn, bà Bùi Thị Hạnh Hiếu nói.

Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn đối với ngành gạo Việt Nam là các rào cản thương mại và chính sách từ các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, để tận dụng các hiệp định thương mại tự do như EVFTA với EU, gạo Việt Nam phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe. Theo đại diện Bảo Minh, giải pháp căn cơ nằm ở việc quy hoạch vùng trồng một cách bài bản và có sự đầu tư đồng bộ từ Chính phủ về hạ tầng, logistics, sơ chế và bảo quản.

Ông Trần Văn Công đánh giá, tiềm năng thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản vào thị trường EU còn rất lớn. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng chế biến, giá trị gia tăng của Việt Nam xuất khẩu sang EU còn thấp, chưa tạo được kênh phân phối bền vững, chưa có thương hiệu, khả năng hiện diện tại chưa phổ biến.Bên cạnh đó, EU luôn đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, phát triển bền vững cao và liên tục cập nhật.

EU dịch chuyển sang tiêu dùng xanh, sạch, đòi hỏi đáp ứng tiêu chuẩn phát triển bền vững về lao động, môi trường, giảm phát thải, giá trị tích hợp - di sản của sản phẩm nông nghiệp. Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn yếu về chuẩn bị nguyên liệu, đầu tư máy móc công nghệ, thương hiệu, chi phí tiếp quảng bá tiếp thị, nghiệp vụ ngoại thương…, ông Công nói.

Để khai thác thị trường tiềm năng EU, ông Trần Văn Công khuyến nghị, Việt Nam cần phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn EU. Ngoài ra, cần tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, nhãn hiệu sản phẩm, doanh nghiệp đối với các sản phẩm nông sản xuất khẩu vào EU, tăng khả năng nhận diện sản phẩm nông sản thực phẩm Việt Nam trên thị trường EU, thâm nhập sâu hơn, đa dạng chủng loại sản phẩm hơn vào các kênh, chuỗi phân phối tại EU.

Đồng thời, triển khai thực hiện xây dựng chiến lược truyền thông dài hạn, chủ động để hạn chế truyền thông tiêu cực về thủy sản Việt Nam tại EU; rà soát và hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm, bền vững… phù hợp và tham chiếu các tiêu chuẩn EU.

Các chuyên gia ngành lúa gạo nhận định, so với các đối thủ trong khu vực như Thái Lan, Việt Nam có lợi thế về sự đa dạng của các vùng địa lý và khí hậu, cho phép trồng được nhiều vụ lúa và phát triển các giống gạo đặc sản khác nhau. Từ các vùng chuyên canh lúa chất lượng cao ở Long An, An Giang, Đồng Tháp đến các giống lúa đặc trưng của vùng Tây Bắc, Việt Nam có một danh mục sản phẩm phong phú để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường thế giới.

Với chiến lược tập trung vào chất lượng, xây dựng thương hiệu quốc gia và sự hỗ trợ từ các chính sách của Chính phủ, ngành lúa gạo Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát triển bền vững, giữ vững vị trí hàng đầu trên bản đồ xuất khẩu gạo toàn cầu.

Xuất khẩu gạo Việt sang EU tăng trưởng tích cực trong những năm qua, song theo các chuyên gia, dư địa cho gạo Việt tại thị trường này vẫn còn rất lớn.

Nguyễn Hạnh
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận

Có thể bạn quan tâm