Sáng 1/12, tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội tiến hành thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Địa chất và Khoáng sản (sửa đổi).
Thống nhất thẩm quyền quản lý khoáng sản
Góp ý vào của dự thảo luật, đại biểu Dương Khắc Mai - đoàn Lâm Đồng cho biết, dự thảo sửa đổi khoản 1 Điều 20 và khoản 2 Điều 31 của Luật hiện hành theo hướng chuyển thẩm quyền từ Thủ tướng Chính phủ sang Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; đại biểu đồng ý với chủ trương phân cấp này.

Đại biểu Dương Khắc Mai - đoàn Lâm Đồng. Ảnh: QH
Tuy nhiên, “việc tổ chức khoanh định, phê duyệt khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia và quyết định thời gian, gia hạn dự trữ khoáng sản cho từng khu vực dự trữ khoáng sản có gắn kết chặt chẽ với việc phê duyệt quy hoạch điều tra cơ bản khoáng sản, quy hoạch khoáng sản nhóm I, nhóm II; trong khi các nội dung trên theo luật hiện hành đều thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Do đó, tôi đề nghị cân nhắc quy định về thẩm quyền cho phù hợp, tránh tạo ra độ vênh trong hệ thống thẩm quyền” - đại biểu Dương Khắc Mai nêu.
Liên quan đến vấn đề cấp lại giấy phép khai thác khoáng sản (khoản 16 Điều 1 - sửa đổi điểm b khoản 4 Điều 56), theo đó dự thảo quy định: Trường hợp hết thời hạn khai thác khoáng sản (bao gồm cả thời hạn gia hạn) và khu vực khai thác vẫn còn trữ lượng, việc cấp lại giấy phép được thực hiện theo đề nghị của tổ chức, cá nhân đã được cấp phép, trừ trường hợp tại khoản 3 Điều 87.
Đại biểu bày tỏ sự đồng ý bổ sung nội dung, trừ trường hợp khoản 3 Điều 87. Đại biểu cho rằng, cách diễn đạt hiện nay có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau: (1) chỉ được cấp lại giấy phép khi đã từng được gia hạn và thời gian gia hạn cũng đã hết; hoặc (2) chỉ cần giấy phép chính đã hết hiệu lực; nếu còn trữ lượng thì được cấp lại, không phụ thuộc đã gia hạn hay chưa.
Theo đại biểu, cách hiểu thứ hai mới đúng bản chất pháp lý, bởi quyền được cấp lại giấy phép là quyền độc lập, được quy định tại Điều 59, không phụ thuộc vào việc trước đó có gia hạn hay không.
“Trên thực tế, không phải mọi giấy phép hết hạn đều làm thủ tục gia hạn; có trường hợp giấy phép chính hết hiệu lực nhưng khu vực vẫn còn trữ lượng đáng kể. Nếu hiểu theo cách thứ nhất sẽ gây ách tắc, bỏ phí trữ lượng khoáng sản còn lại. Do đó, tôi đề nghị quy định lại theo hướng rõ ràng, nhất quán”- đại biểu nêu.
Đại biểu đề nghị, trường hợp thời hạn khai thác khoáng sản, bao gồm cả thời gian gia hạn (nếu có), đã hết và khu vực được phép khai thác còn trữ lượng thì việc cấp lại giấy phép khai thác khoáng sản được thực hiện theo đề nghị của tổ chức, cá nhân đã được cấp phép, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 87 của luật này”.
Đồng thời, đại biểu đề nghị bổ sung quy định chuyển tiếp để tránh vướng mắc khi thực thi: Đối với các giấy phép đã hết hạn trước ngày luật có hiệu lực nhưng khu vực còn trữ lượng, vẫn được xem xét cấp lại theo đề nghị của tổ chức, cá nhân đã được cấp phép.
Liên quan đến quy định đóng cửa mỏ khoáng sản ( Điều 84), đại biểu Dương Khắc Mai cho biết: Quy định tại Điều 84 của Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đang có điểm mâu thuẫn và bất cập với Luật Bảo vệ môi trường và Luật Đấu thầu. Hiện, nhiều mỏ đã hết hạn khai thác nhưng doanh nghiệp không thực hiện đóng cửa mỏ, đồng thời chấp nhận bị xử phạt theo Điều 49 Nghị định 36/2020 (70 - 100 triệu đồng) vì mức phạt quá thấp, không đủ sức răn đe trong khi chi phí đóng cửa mỏ có thể lên tới hàng trăm triệu đồng, thậm chí cao hơn. Điều này dẫn đến hệ quả trách nhiệm đóng cửa mỏ chuyển sang nhà nước (khoản 2 Điều 84), trong khi nhà nước không có đủ công cụ kỹ thuật - tài chính để thực hiện.
Ngoài ra, cơ quan địa phương hiện không có định mức kinh tế, kỹ thuật hay đơn gia chuẩn quốc gia cho công tác đóng cửa mỏ. Do đó, gây khó khăn trong công tác lập dự toán, không đủ cơ sở để tổ chức đấu thầu, lựa chọn nhà thầu..

Các đại biểu họp tại hội trường sáng 1/12. Ảnh: QH
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 84 quy định sử dụng quỹ bảo vệ môi trường để đóng cửa mỏ nhưng bất cập là quỹ này không được phép tạm ứng để chi trả quy trình đấu thầu dẫn đến việc gần như không có địa phương nào thực hiện thành công việc đóng cửa mỏ thay thế doanh nghiệp.
Từ các bất cập trên dẫn đến các mỏ bị bỏ hoang, phát sinh sạt lở gây ô nhiễm môi trường và tiềm ẩn nhiều rủi ro về an toàn.
Từ các phân tích trên, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định theo hướng: Cơ chế ký quỹ linh hoạt, được điều chỉnh định kỳ theo biến động chi phí thực tế; quy định rõ nguồn kinh phí tạm ứng để tổ chức đấu thầu đóng cửa mỏ; cách thức thu hồi chi phí từ doanh nghiệp sau khi Nhà nước thực hiện thay; Chính phủ cần sớm ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá chuẩn quốc gia cho công tác đóng cửa mỏ, làm cơ sở cho địa phương triển khai.
“Việc hoàn thiện các nội dung trên sẽ góp phần giảm gánh nặng ngân sách, tăng trách nhiệm của doanh nghiệp; giảm thiểu tác động môi trường và bảo đảm quản lý nhà nước chặt chẽ”- đại biểu kiến nghị.
Không để biến tướng cơ chế “khai thác khẩn cấp”
Liên quan đến quy định cấp phép khai thác khoáng sản trong tình trạng khẩn cấp tại điểm g, điểm h của khoản 2, Điều 2, đại biểu Phạm Văn Hòa - đoàn Đồng Tháp bày tỏ sự đồng thuận với việc bổ sung các quy định mới nhằm cho phép khai thác, thu hồi và sử dụng khoáng sản nhóm III và nhóm IV phục vụ ứng phó tình trạng khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh, quốc phòng, an ninh mà không phải thực hiện thủ tục cấp giấy phép thăm dò và công nhận kết quả thăm dò.
Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cân nhắc do khoáng sản nhóm III, IV (đất, đá thông thường) là vật liệu san lấp đang được khai thác rất nhiều ở cả vùng đồi núi và đồng bằng.

Sáng 1/12 Quốc hội thảo luận tại hội trường. Ảnh: QH
Đại biểu Phạm Văn Hòa phân tích, thực tế những năm qua cho thấy sạt lở núi, sạt lở bờ sông, ngập lụt, suy giảm môi trường diễn biến vô cùng phức tạp, khó lường.
Theo Đại biểu, quy định hiện nay chưa làm rõ 2 vấn đề chính là: Ai có thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp và Cơ chế kiểm soát khối lượng khai thác? Nếu quy định cho phép khai thác trong tình trạng khẩn cấp nhưng không có cơ chế kiểm soát phạm vi, vị trí và khối lượng khai thác, rất dễ bị lạm dụng dẫn đến khai thác bừa bãi, tác động xấu đến môi trường, hệ sinh thái và đời sống nhân dân.
Do đó, đại biểu đề nghị, phải xác định rõ cơ quan có thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp; phải có tiêu chí, phạm vi và khối lượng khai thác cụ thể; phải được đánh giá tác động môi trường tối thiểu để bảo đảm an toàn cho khu vực dân cư, rừng núi và hạ lưu.
Đại biểu nêu ví dụ, nếu cho phép khai thác 1.000 m³ để khắc phục thiên tai nhưng thực tế khai thác 2.000 - 3.000 m³ và sử dụng cho mục đích khác thì điều này không thể chấp nhận được. Cơ chế kiểm tra, giám sát cần giao rõ trách nhiệm cho Sở Nông nghiệp và Môi trường và chính quyền địa phương.
Từ những lo ngại thực tế, đại biểu đề xuất dự thảo luật cần phải thể hiện được một số nội dung như: Quy định cụ thể phạm vi được khai thác; giới hạn khối lượng; cơ chế kiểm soát, giám sát nghiêm ngặt tại địa phương và trách nhiệm của Sở Nông nghiệp và Môi trường, UBND cấp tỉnh.
Không chỉ dừng ở kiểm soát trước, đại biểu nhấn mạnh vai trò của hậu kiểm: Việc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm là xu hướng cải cách nhưng nếu không tổ chức giám sát thường xuyên sẽ tạo điều kiện cho khai thác bừa bãi.




