![]() |
Lợi ích từ thủy điện nhỏ ở miền núi phía Bắc
Với đặc điểm địa lý của đất nước có nhiều đồi núi, cao nguyên và sông hồ, lại có mưa nhiều nên hàng năm mạng lưới sông suối vận chuyển ra biển hơn 870 tỷ m3 nước, tương ứng với lưu lượng trung bình khoảng 37.500m3/giây, rất thuận lợi cho việc phát triển các nhà máy thủy điện.
Hiện nay, thủy điện là nguồn năng lượng chính đáp ứng nhu cầu điện quốc gia. Đến nay, các công trình thuỷ điện đã khai thác được khoảng 4.238 MW, chiếm hơn 40% tổng công suất lắp máy của toàn hệ thống điện quốc gia (khoảng 10.445 MW). Lượng nước sử dụng để phát điện từ dung tích hữu ích của các hồ chứa thuỷ điện khoảng 13,6 tỷ m3. Theo quy hoạch thuỷ điện trên 9 lưu vực sông chính, dự kiến thuỷ điện sẽ cung cấp khoảng 16.200MW, chiếm 62% trong tổng số 26.000MW cần bổ sung đến năm 2020. Điều này đã góp phần phát triển cơ sở hạ tầng tại các khu vực vùng sâu, vùng xa.
Việc đưa thủy điện nhỏ vào vận hành đã góp phần tận dụng được nguồn năng lượng thiên nhiên hiện có. Đồng thời tiết kiệm nguồn nhiên liệu than, dầu, khí đang ngày càng khan hiếm; điều hòa lượng nước cho nông nghiệp thủy lợi, giao thông vận tải và sinh hoạt của người dân, nhất là vào mùa khô; đóng góp quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở những vùng khó khăn, bảo vệ an ninh quốc phòng. Ngoài ra, thu nhập nhờ bán điện còn cho phép tài trợ lại các chương trình xoá đói, giảm nghèo cho những người dân bị ảnh hưởng bởi việc xây dựng thuỷ điện, trong đó phần đông là đồng bào dân tộc thiểu số.
Tận dụng nguồn năng lượng gió vùng ven biển
Với hơn 3.000km đường bờ biển và các đảo lớn nhỏ, tiềm năng năng lượng gió ở Việt Nam được đánh giá vào khoảng 24.000MW (ở tốc độ gió 6 - 7 m/giây). Tiềm năng này tương đương với tổng công suất của tất cả các nhà máy nhiệt điện hiện nay. Đến nay có khoảng 48 dự án điện gió được đăng ký ở các giai đoạn khác nhau nhưng chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long với tổng công suất khoảng 5.000MW, mỗi dự án có công suất từ 6 - 250MW.
Phát triển năng lượng gió còn có tiềm năng quan trọng để giảm thiểu biến đổi khí hậu. Bởi nhà máy nhiệt điện than là một trong những nguồn phát thải lớn nhất gây ô nhiễm không khí ở Việt Nam, với hàng triệu tấn oxit nitơ, carbon dioxide và sulfur dioxide phát thải ra môi trường mỗi năm.
Tính đến hết năm 2015 Việt Nam mới có 2 dự án điện gió lớn đã hoàn thành đầu tư giai đoạn một và đi vào hoạt động. Dự án đầu tiên nằm ở huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận với công suất 30MW, bao gồm 20 tuốcbin 1,5MW. Dự án điện gió thứ hai nằm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thuộc tỉnh Bạc Liêu, dự án này mới hoàn thành giai đoạn 1 với 10 tuốc-bin 1,6MW. Tuy mới có 2 dự án đi vào hoạt động nhưng hiệu quả mang lại bước đầu được đánh giá cao: Tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, bộ mặt cơ sở hạ tầng phát triển, cảnh quang môi trường sạch đẹp. Nhiều địa phương đã trở thành các khu du lịch và kết hợp với mô hình nuôi tôm xuất khẩu để từng bước nâng cao đời sống của bà con.
| Ông Trần Viết Ngãi - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam: Phát triển năng lượng xanh ngoài việc cung cấp cho nền kinh tế thêm một nguồn năng lượng mà còn giúp cắt giảm khí thải nhà kính, giảm thiểu ô nhiễm không khí, cải thiện chất lượng môi trường một cách bền vững, góp phần làm giảm các tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra ngày một mạnh mẽ. |





