
Cán bộ làm công tác dân tộc cần nâng cao, năng lực thực tiễn
CôngThương -
PV: CCHC của UBDT tác động thế nào với công tác dân tộc, thưa ông?
Thứ trưởng, PCN UBDT Hà Hùng:
![]() |
UBDT có đặc điểm, đặc thù là mọi hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực đều gián tiếp, nên thủ tục hành chính về công tác dân tộc của UBDT không nhiều, việc đáp ứng sự hài lòng của người dân cũng ít. Gián tiếp ở chỗ, vì UBDT là cơ quan tham mưu, nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách dân tộc, chính sách đầu tư hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ kinh tế - xã hội UBDT không làm trực tiếp với người dân. Tất cả những vấn đề này, không chỉ UBDT thực hiện, mà các bộ, ngành khác cũng làm. UBDT cùng với các bộ, ngành tham mưu với Chính phủ ban hành chính sách, cơ chế để hỗ trợ người nghèo, người dân tộc thiểu số ở các lĩnh vực, nhất là xóa đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí... Chung quy lại, với sự đáp ứng về CCHC, sự hài lòng của người dân, UBDT chỉ tác động gián tiếp, chứ không trực tiếp như các bộ, ngành khác.
PV: Ông có thể nói rõ hơn về tác động cụ thể trong CCHC của UBDT đối với người dân?
Thứ trưởng, PCN UBDT Hà Hùng: CCHC của UBDT có tác động đến sự hài lòng của người dân? Có, nhưng gián tiếp. Các chính sách ban hành do UBDT phụ trách tác động đến người dân ở chỗ: Thứ nhất, tham mưu cho Chính phủ ban hành các chính sách có kịp thời không. Thứ hai, có đáp ứng trúng và đúng nguyện vọng của người dân không. Thứ ba, sau khi đã có chính sách rồi, việc ban hành thông tư, văn bản hướng dẫn cho hệ thống bộ máy ở cơ sở triển khai thực hiện chính sách, có bảo đảm kịp thời, nhanh hay chậm và tác động thế nào?
PV: Trong CCHC, những vấn đề nào được UBDT quan tâm đặt ra cho đội ngũ công chức, viên chức làm công tác dân tộc?
Thứ trưởng, PCN UBDT Hà Hùng: Vấn đề lớn nhất của UBDT là tiếp tục củng cố, tổ chức bộ máy hệ thống làm công tác dân tộc, nâng cao chất lượng năng lực đội ngũ công chức, viên chức làm công tác dân tộc. Tôi nhấn mạnh vấn đề này, vì công tác dân tộc thuộc lĩnh vực đa ngành, đa nghề, không hoạt động chuyên sâu như bác sỹ thú y, bác sỹ nha khoa, hay kỹ sư điện...
Vì tính chất như vậy, nên công tác dân tộc đòi hỏi công chức, viên chức, ngoài trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng cao, cần có kiến thức trình độ năng lực thực tiễn sâu sắc. Đó là phải am hiểu địa bàn vùng dân tộc, đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, hiểu được không gian sinh tồn ở vùng cộng đồng dân cư từng dân tộc sinh sống. Cũng là dân tộc, nhưng có người sống ở vùng núi, người sống ở vùng cao núi đá, người sống ở vùng đồng bằng...
Do vậy, đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc phải hiểu rõ những điều đó; cũng như phải hiểu phong tục tập quán, văn hóa của từng dân tộc. Đặc biệt, phải hiểu được trình độ dân trí của từng dân tộc ở mức nào, việc canh tác đang trình độ nào và thực trạng hiện nay đang ở mức độ nào trong từng lĩnh vực. Đồng thời phải hiểu đồng bào cần gì...
Một điểm nữa liên quan đến nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ công chức, viên chức trong cơ quan công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương, đó là, phải hiểu hệ thống chính trị ở cơ sở hoạt động như thế nào? Chất lượng ra sao, các chính sách đã “tung” ra rồi thì bộ máy ở cơ sở làm được không, làm thế nào?
Tóm lại, những điều đã nói ở trên được liệt vào năng lực thực tiễn của cán bộ làm công tác dân tộc. Cho nên, CCHC của UBDT rất quan tâm đến củng cố và xây dựng bộ máy, đặc biệt quan tâm đến nâng cao năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ công chức
PV: Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng, PCN!




